Khoảng cách oan
khiên
(T.Vấn)
Chút rượu hồng đây
xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu
này
(Ta Về - Tô Thùy Yên)
1.
Nước Mỹ cần tới 42 năm để
hàn gắn những vết thương gây ra bởi
cuộc nội chiến Nam Bắc. Cuộc chiến hai miền
của Việt Nam mới chấm dứt được
có 32 năm. Cho nên, cũng không lạ
gì nếu vẫn còn hiện hữu những hố
sâu chia rẽ hai bên sau cuộc chiến. Và hiện tượng trên còn xảy
ra ở một thế hệ sinh ra khi cuộc chiến
đã tàn lụi từ lâu. Mới
đây, trên một trang nhật ký mạng
(Blog), một thanh niên Sài Gòn nhận định
rằng người miền Bắc (Hà Nội)
thô lỗ, có giọng nói kỳ cục,
lái xe ẩu tả và không có khiếu thẩm
mỹ. Lập tức, anh ta nhận được
những câu trả lời giận dữ, kể cả
những đe dọa về tính mạng, dưới
dạng text gởi đến số điện thọai
di động của mình. Và rồi,
các cư dân trẻ trong thế giới ảo
có địa chỉ thật ở hai miền Việt
Nam
nhập cuộc. Bên Nam bênh miền Nam, bên
Bắc bênh miền Bắc, chỉ trích lẫn
nhau. Câu chuyện nhỏ nói trên phản
ánh một thực tại do hậu quả từ một
trong những nguyên nhân là sự chênh lệch
trong phát triển của hai miền từ những
ngày trước khi chiến tranh chấm dứt.
Người Sài Gòn thường tự hào về
di sản tự do họ được thừa hưởng
từ chế độ đã sụp đổ, về
những cơ hội tiếp xúc với văn minh thế
giới trước miền Bắc rất lâu. Mặt
khác, vị trí địa lý và lịch
sử của thành phố Sài Gòn - vốn
là thủ đô dưới thời VNCH - khiến
người Sài Gòn năng động hơn,
phóng khoáng hơn khi đối diện với nhiều
vấn đề thiết thực của đời sống,
nhất là về kinh doanh thương mại. Thế
giới phương Tây biết đến Sài
Gòn nhiều hơn Hà Nội, dù Hà Nội
hiện nay là thủ đô của Việt nam Cộng
sản, vì, theo lời một số người (ngọai
quốc) thường đi lại vùng Đông nam
Á, Sài Gòn có
cái nét của một thiếu nữ dễ
thương, hiểu biết, khi so sánh với người
đàn bà luống tuổi Hà Nội bẳn
tính, thiếu thân thiện. Ngược
lại, người Hà Nội tự hào mình
xuất thân từ mảnh đất ngàn năm
văn vật, nơi xuất phát của một nền
văn hóa có chiều dầy lịch sử.
Họ cho rằng người
Hà Nội có chiều sâu hơn người
Sài Gòn vốn ruột để ngoài da, ham
vui. Tất nhiên, khác biệt ý
thức hệ trong 30 năm của cuộc chiến tranh
không phải là không để lại nhiều
dấu ấn trong mối quan hệ giữa hai miền,
dù nay đã thành một nước thống
nhất, nhưng chỉ thống nhất trên
phương diện địa lý, còn về nhiều
phương diện khác, nhất là văn
hóa, chắc chắn khó có thể nói
đến thống nhất được, có
chăng là nền văn hóa miền nào cao
hơn, sẽ từ từ đồng hóa bên
có nền văn hóa thấp hơn.
Lịch sử Việt Nam từ 30
năm trở lại đây đã cho thấy rất
rõ điều đó. Miền Bắc, sau chiến thắng 1975, đã
làm đủ mọi cách để kéo miền
Nam xuống cho ngang tầm với miền Bắc, từ
kinh tế, xã hội, nếp sống, cho đến những
lãnh vực cao hơn như văn hóa, ngôn ngữ,
âm nhạc, tôn giáo. Nhưng dù là kẻ
thắng trận, với quyền lực trong tay thông
qua các biện pháp hành chính, cưỡng
bức hoặc những đợt càn quét giới
trí thức, đốt sách, đẩy những
thành phần ưu tú của miền Nam vào
các trại cải tạo, có thể thành
công trong việc bần cùng hóa đời sống
kinh tế, nhưng vẫn phải chịu thua về
phương diện văn hóa. Tôn giáo,
dù bị kiểm sát chặt chẽ bời đủ
mọi cơ quan, từ chính quyền cho đến
các tổ chức ngọai vi ngụy
trang dưới hình thức các đoàn thể
tôn giáo, vẫn phát triển sâu rộng
trong mọi từng lớp dân chúng. Ngôn ngữ
ngày càng Sài Gòn hóa, dù cho
có lúc người ta phải sử dụng những
từ du nhập từ miền Bắc, mang một nội
dung khá xa lạ với người dân miền Nam. Phong
cách giao tế, ăn mặc, xử sự, thời
gian đầu do những suy sụp về kinh tế
đã khiến người miền Nam phải nhượng
bộ tính cách duyên dáng cố hữu của
riêng mình, nhưng dần dà khi cuộc sống
hàng ngày được cải thiện, phong
cách hào phóng của người miền Nam lại
được mọi người dùng làm
khuôn mẫu xã hội. Trong lãnh vực âm
nhạc cũng vậy, những loại nhạc gọi là
ủy mị, ướt át trước đây bị
kết án và cấm lưu hành, nay
đã trở lại chiếm vị trí còn
cao hơn trước đây trong xã hội miền
Nam. Điều rất dễ hiểu, loại nhạc ấy
gần gũi với tâm hồn con
người, dù đó là con người
đã từng bị thứ chính trị hận
thù giai cấp làm cho tâm hồn bị xơ cứng.
Đám tang nhạc sĩ Trịnh công Sơn, một
người đã từng bị chính quyền Cộng
sản kết án vì những tác phẩm
âm nhạc của mình, diễn ra vào
tháng 4 năm 2001 với sự thương tiếc của
hàng triệu người Việt Nam ở cả hai miền
Nam Bắc, cùng với những nghi thức tưởng
niệm rầm rộ đã là một bằng chứng
rõ nét nhất cho sự ưu thắng của nền
văn hóa ở trình độ cao hơn, dù
nền văn hóa ấy ở về bên phe bị
thua trận. Gần đây, ở Sài Gòn
người ta đã lần lượt cho in lại
những quyển sách xuất bản ở miền Nam
trước 1975, những quyển sách mà khi mới
vào tiếp thu Sài Gòn,
chính quyền Cộng sản đã vội
vã cho lệnh thu gom lại và thiêu hủy. Ngọn lửa phần thư
năm xưa đã không thể đốt hết
được những tinh túy văn hóa kết
tụ trong tim, trong óc con người nền văn
hóa ấy, và trải qua bao cuộc bể
dâu, chúng vẫn còn được tàng
trữ dưới mọi hình thức để chứng
minh sự bất tử, sự tất thắng của những
gì thuộc về con người đích thực.
2.
Cuộc tranh luận gay gắt của một
nhóm thanh niên hai miền Nam Bắc, ngoài những
khác biệt thực tế trong các lãnh vực
văn hóa, xã hội như đã nêu ở
trên, nó còn cho thấy một một mạch
đối kháng ngầm giữa hai bên, hệ quả
từ cuộc chiến tranh Nam Bắc kéo dài từ
1955 cho đến ngày cuối cùng của
tháng 4 năm 1975.
Thế hệ những người sinh ra, trưởng
thành trong thời gian này, dù tình nguyện
hay bị bắt buộc, cũng đã trực tiếp
tham gia vào cuộc chiến ấy, đến nay phần
lớn vẫn còn sống và đã hình
thành nên hai phe đứng ở hai bên của
một lằn ranh tồn tại từ những ngày
chiến tranh khốc liệt đó. Triển vọng cho một cuộc hòa
giải thực sự giữa hai bên vẫn còn rất
mong manh, nếu không muốn nói là khó
mà thực hiện được.
Ngoài những trở ngại tự thân đến
từ những người lính trước
đây mặc hai màu áo khác nhau, trở
ngại lớn nhất vẫn là từ nhà cầm
quyền trong nước hiện nay, vốn không bao giờ
thực tâm muốn hòa giải, dù miệng
lưỡi vẫn ngày ngày hô to khẩu hiệu
hòa giải, thứ chính quyền mà một
người trí thức trẻ ở trong nước
đã mô tả "...
chưa bao giờ trong lịch sử, những người
lãnh đạo đất nước lại hèn
nhát, bảo thủ đến cùng như lúc
này. Thà mất nước chứ nhất định
không chịu từ bỏ con đường sai,
không chịu mất quyền lực, và chưa bao
giờ mỗi lần con số ít ỏi những
người dân Việt dám cất lên tiếng
nói lương tâm lại cảm thấy cô
đơn, lẻ loi giữa cộng đồng và bất
lực như lúc này !..." (trích
Song Chi’s Blog).Chiến
tranh chấm dứt đã hơn 30 năm, nhưng những
tranh chấp giữa người Việt với nhau vẫn
chưa chấm dứt. Cuộc đối đầu triền
miên không bao giờ dứt ấy, ít nhiều
đã ảnh hưởng những thế hệ trẻ,
sinh ra sau chiến tranh, tuy không tham dự trực tiếp
cũng vẫn vô hình chung, chọn cho mình một
phía để đứng, vì cha anh của họ
đã từng đứng về phía ấy,
đã từng đổ máu, hy sinh, và
bên phía thua trận thì cũng đã từng
bị tù đầy, lưu vong. Cái
lằn ranh ngăn chia những người trẻ ấy
tuy có vô hình hơn, nhưng không thể
phủ nhận rằng nó không hiện hữu.
Tất nhiên, một người trẻ hiện sinh sống
ở Việt Nam, có cha hay anh là lính Cộng
Hòa, tuy không dám công khai bênh vực cha
anh mình mỗi khi nghe những lời phỉ báng,
nhưng tận thâm tâm vẫn mang một nỗi hậm
hực khó chịu, cho đến khi nỗi hậm hực
khó chịu ấy có cơ hội và điều
kiện để bùng nổ, phát tác dưới
hình thức nào đó.
Sự ưu thắng của văn
hóa miền Nam,
tức bên thua trận, lại càng khơi sâu
thêm mặc cảm tranh chấp giữa những người
sống ở hai bên lằn ranh ý thức hệ
ngày ấy. Bên
thua, có thêm lý do để xoa dịu nỗi
đau thất trận và cảm giác được
ủi an những ngày cuối đời phải
kéo dài kiếp sống lưu vong. Bên thắng,
cái tự hào của người chiến thắng
năm xưa hiên ngang bước trên đường
phố tràn ngập cờ đỏ chào
đón "người giải phóng"
đã không còn được nguyên vẹn.
Ít nhiều, lòng tự hào ấy
đã bị tổn thương. Cả
hai bên, người nào cũng đã già
nua, tuổi tác. Và vì
già nua tuổi tác, đầu óc không
còn "chỗ trống" để tiếp nhận
những ý tưởng mới, những ý kiến
khó chấp nhận. Cái hệ quả hiển
nhiên ấy, ngoài việc đẩy hai thế hệ
già nua càng xa thêm lằn ranh khiến họ
có thể đưa tay cho nhau nắm nếu điều
kiện chín mùi, còn gây nên một khỏang
cách "khó chịu" cho thế hệ con
cháu những người đó. Tất nhiên,
thế hệ trẻ không thể ghét bỏ nhau
như cha anh mình, vì họ không có những
lý do chính đáng để ghét bỏ lẫn
nhau, nhưng đã chắc gì họ có thể
bắt tay nhau như những người bạn thực sự.
Oan khiên ấy, sẽ còn tồn tại
đến bao giờ ?
3.
Những ngày này, một số
người làm văn học ở cả trong lẫn
ngoài nước đang cố gắng làm cây
cầu nối bước qua khoảng cách oan
khiên ấy, trước hết, là chính họ
đến với nhau. Cố gắng ấy phát xuất từ những
thiện chí và ước muốn đáng
ngưỡng mộ. Nhưng, oan nghiệt
thay, cùng một lúc, mọi người đều
nhìn thấy cái chênh vênh của những
cố gắng ấy. Họ như những người
đang đi trên dây xiếc giữa một bên
là văn học, và bên kia
là chính trị. Từ
trong nước ra đến hải ngọai, văn học
và chính trị là hai mặt của một
đồng tiền, hay nói theo lời
một người viết văn ở hải ngoại,
văn học và chính trị là hai mặt của
đời sống. Người ta không thể làm
văn chương mà không nhìn thấy
ông chính ủy ngồi chễm chệ trước
mặt, hay những "taboo chính trị" của
người Việt hải ngoại như những thanh
gươm Damoclès treo lơ lửng trên bầu trời
phố Bolsa.
Mà đã không thể tách rời được
thuộc tính đầy bất trắc của
chính trị, thì liệu thế cân bằng,
hay đúng hơn sự độc lập của
văn chương, sẽ có được mức
độ khả tín như thế nào hầu
làm tròn vai trò "chiếc cầu bắc qua
khoảng cách oan khiên" như người ta
mong đợi ?
T.Vấn
Tháng 3-2008
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)