Cầu Đồn
(Phan)
1.
Ông Tâm ngồi nhớ lại…
Năm 1972, tôi chạy chơi mệt phờ
nên về nhà ngoại để uống nước
- gần hơn về nhà mình. Tôi gặp cha
tôi ở đó ! Ông mới hành quân về,
trên người còn súng ngắn súng
dài, đeo lựu đạn lủng lẳng thấy ớn
! Nghe cha nói với ông ngoại: “Ngoài
Trung đánh dữ rồi ba ơi, con lo cho thằng
Út nhà mình quá ! Vợ nó lại sắp
sanh. Lần này nó về thì ba nói
nó… Không thôi ! Ở lại nhà với
vợ con, giúp anh em Nghĩa quân trong Đồn cũng
vậy ! Ở đâu chẳng có Việt cộng.
Cần gì phải ra tới ngoài Trung cho xa
xôi…”
Ông ngoại tôi vuốt chòm râu
dài và trắng như cước, thở
dài… “Nó trai trẻ, chứ như
mày đâu mà dễ nói !...”
Tôi đến bên ông ngoại để
cố nghe hết chuyện, hòng học lại với
mợ Út là có bánh kẹo, ăn.
Nhưng cha tôi nghiêm khắc cảnh cáo: “Mày
đi chỗ khác chơi. Cái tật…
hóng chuyện người lớn là ăn
đòn nha con.” Tôi quê quá ! Lặn xuống
nhà sau thì thấy mợ Út mắt đỏ
hoe. Tôi thoa bụng mợ Út như nựng em
bé, làm mợ cũng bớt buồn. Mợ nhận
lời cậu Út chăm sóc cho tôi là
đứa cháu cưng của cậu. Tôi nhớ lời
cậu gởi gắm hôm cậu về phép, rồi
đi: “Mày bớt đi chơi, coi mợ Út
cần gì thì làm cho mợ Út, mợ
có em cho mày đó ! Biết hôn ?...”
Hai mợ cháu tôi thân hơn ai hết
trong dòng họ. Chính xác là họ ngoại
vì cha tôi là người Bắc di cư.
Không biết sao, ông chỉ có một
mình, không bà con thân thích hay gia
đình, cha mẹ gì hết. Cha lưu lạc
đến đây, gặp má tôi… rồi ở
rể nơi này.
Tuổi 12 của đứa con trai nhà quê,
tôi làm được gì hơn là leo
cây dừa xiêm nhà ngoại, lựa trái cứng
cạy, hái xuống. Tôi chặt trái dừa
cho mợ Út giải khát. Mợ Út tôi
mê dừa xiêm cứng cạy ở nhà ngoại
mà lấy cậu Út ! Tôi nghe người ta
nói vậy vì mợ tôi đẹp lắm, con
nhà giàu mà đi ưng cậu Út-trời-gầm
của tôi !
Sau đó, tôi đi chơi tiếp vì
tình hình chiến sự trong đầu óc
đứa nhỏ 12 tuổi rất lơ mơ. Xóm Cầu
Đồn của tôi chỉ có tiếng lá dừa
cây, dừa nước xào xạc ngày
đêm, tiếng súng hiếm hoi là Nghĩa
quân bắn con cá sấu ngủ quên trên
bãi sình nào đó khi nước sông
mới ròng. Bà con trong xóm chỉ việc cắp
rổ ra chia thịt cá sấu về ăn.
Chiến tranh lan dần tới xóm tôi bằng
những đêm bị Việt cộng pháo
kích. Máy bay quân sự bay trên bầu trời
nhiều hơn để thả trái châu…
Tôi coi như vô can trước chiến cuộc phừng
phừng vì đâu đã có ý thức,
thậm chí thích máy bay thả nhiều
trái châu để sáng hôm sau ra đồng
nhặt dù trái sáng về che rạp
đám cưới, đám ma…
Chuyện tôi nhớ nhất là mợ
Út sanh con. Bà ngoại tôi với bà mụ
vườn trực suốt trong phòng mợ Út,
chưa nghe tiếng khóc em bé thì nghe tin cha
tôi bị du kích (Việt cộng nằm vùng)
bắn lén ! Ông bị hai viên vô lưng
nhưng nhờ có áo giáp nên không sao
! Hai viên trúng đùi và bắp chân
làm gãy xương chân bên phải. Mấy
người lính đi hành quân chung với cha
tôi, tử thương một người tại trận,
một bị trật cổ vì đạn trúng
nón sắt, nón xoay tới trật cổ mà
không chết mới biết là người ta
có số ! Bên địch cũng bỏ lại
xác chết quen mặt là người
đánh xe ngựa chứ lạ lẫm gì
đâu ! Từ đó, xóm làng nhìn
nhau thêm hoang mang vì không biết ai là Việt
cộng !
Ông ngoại tôi theo trực thăng
đưa cha tôi đi bệnh viện. Ở nhà,
mợ Út sanh con gái. Bà ngoại tôi thắp
nhang mù mịt từ trên bàn thờ trong
nhà ra tới bàn thông thiên… Khấn
vái Trời Phật, ông sui bà sui là
ông bà nội tôi, che chở cho cha tôi tai
qua nạn khỏi. Ngoại còn quá giang
thêm… “Anh chị sui linh thiêng, che chở
luôn cho thằng Út nhà tui bình an, sớm về
nhà với vợ con nó mong đợi.”
Bà mụ vườn lính quýnh chạy
ra chạy vô… tới má tôi đi chợ tỉnh
về thì mọi chuyện tạm yên. Má nghe
tin cha tôi bị thương nặng, nhưng
đã có ông ngoại đi theo trực
thăng tải thương thì má bớt lo.
Má lo cho mợ Út nhiều hơn.
Rồi mọi chuyện êm xuôi. Tới
hôm đầy tháng con nhỏ con cậu Út,
cha tôi chống nạng đi ra đi vô…
“Thương thằng Út quá ! Con nó đầy
tháng rồi, còn chưa gặp mặt
cha…” Nhưng con nhỏ em cô-cậu với
tôi thì không bao giờ gặp mặt cha. Cậu
Út tôi về trong quan tài phủ cờ Tổ
quốc.
Đám tang cậu Út thiệt nhiều
nước mắt khi mọi người nhìn thấy
đứa em cô-cậu của tôi mới tròn
tháng tuổi mà đã đeo tang trắng.
Tôi chỉ mong mình mau lớn để đi
lính, dù chưa từng thấy mặt mũi Việt
cộng ra sao ? Hôm đám tang đưa qua Cầu
Đồn để đi nghĩa trang. Nghĩa quân
trong Đồn bắn súng đưa tiễn cậu
Út như người anh hùng của xóm
làng đã hy sinh cho Tổ quốc. Đó
là lần cuối cùng trong đời cây cầu
sắt, lót ván, làm được một việc
ý nghĩa là đưa người anh hùng về
nơi an nghỉ cuối cùng. Bởi ngay đêm
đó, Việt cộng gài mìn dưới cầu,
gần sáng, nghĩa quân đi tuần đêm
về, họ cho nổ để giết thêm vài
mạng nữa. Cầu sập, chết người…
xóm làng vĩnh viễn hết bình yên.
Xóm tôi đã xa cách với xóm
Đồn từ khi cây cầu không còn nữa.
Con đường Hương lộ từ ngã ba
Ông Thạnh, ngoài tỉnh lộ, xuyên qua những
cánh đồng, nghĩa địa, những xóm
nhà, nhiều cây cầu sắt lót ván
mà mỗi lần xe ngựa chạy qua lại gập
ghềnh những miếng ván bong đinh, là
âm thanh đã ăn sâu vào tiềm thức
tôi. Con đường đất đỏ nắng bụi
mưa sình chạy qua rạch đỉa thì
có cầu Rạch Đỉa, qua rạch dơi
có cầu Rạch Dơi, qua rạch dừa có cầu
Dừa… tới cầu Đồn vì Đồn
lính Nghĩa quân ngay chân cầu. Qua Cầu
Đồn là xóm tôi… rồi đi về
đâu thì 12 tuổi, tôi chưa biết ! (Sau
này nghe kể là đi vô rừng đước,
rừng tràm, vô bưng của phe bên kia.)
Chỉ biết sau hè 1972, tôi lên trường
Quận để học Trung học vì xóm Cầu
Đồn chỉ có trường Tiểu học.
Tôi ăn ở luôn trên nhà má Hai
vì dượng Hai làm việc trong Quận. (Nghe kể:
Dượng Hai là thầy của cậu Tư
tôi, dượng theo cậu Tư về nhà ngoại
ăn đám giỗ, rồi gặp và làm
quen với má tôi là cô ba. Ai dè, đụng
ông kẹ là cha tôi nên dượng quẹo…
mà quẹo xuống thì đụng cậu Út
- ít nói mà uống như hũ chìm,
nên cuối cùng quẹo lên… thành
dượng Hai trong nhà ngoại.) Tôi lên ở
nhà má Hai cũng là ý Dượng muốn
tôi ăn học. Dượng với cha tôi và
cậu Út thân thương nhau lắm. (Cậu
Tư tôi đang học Đại học ở
Sài gòn. Bỗng biến mất vô cớ
mà dượng Hai, cha tôi tính với ông
ngoại là cậu Tư vô bưng theo mấy ổng.)
Dượng Hai buồn chuyện đó thật nhiều
vì không dạy được cậu Tư như
ý ông ngoại gởi gắm. Nên từ
ngày tôi lớn. Dượng đem tôi lên
Quận để kềm cặp, Dượng đi
làm về thì dạy thêm cho tôi toán,
lý, hoá là những môn mà học sinh
miệt vườn ưa bị yếu.
Từ hôm cầu Đồn bị gài
mìn, sập. Dượng không muốn tôi về
nhà nhiều vì mất an ninh. Nhưng tôi cứ
thích về vì mới có xe đạp.
Dù bây giờ, một lần muốn qua sông cầu
Đồn phải đi đò. Bắt đầu từ
Quán nước của ông Hai Giao, đã
có trước đó. Ông Hai Giao già rồi,
nhưng thấy con nít đi học tới chân cầu,
đứa nào cũng phải cởi trần truồng.
Sau đó, bỏ quần áo với mấy cuốn
tập vô bịch ny-lon. Tụi nhỏ đội bịch
ny-lon lên đầu, một tay vịn bịch ny-lon cho
đừng ướt tập với quần áo, một
tay ôm bặp dừa nước để vượt
sông cầu Đồn, sang bờ thì mặc lại
quần áo và đến trường. Mấy
đứa con gái không gan dạ như con trai
thì nghỉ học. Ông Hai Giao tội nghiệp tụi
nhỏ nên lấy cái xuồng ba lá đưa
đón tụi nhỏ trong xóm qua sông cho khỏi
mù chữ. Ông Hai không lấy tiền
đò còn rầy đứa này không chịu
ngồi yên; khuyên đứa kia ráng học.
Bà con trong xóm cần qua sông để đi
chợ, công chuyện… phát sinh nhu cầu phải
có con đò thay thế cho chiếc cầu
đã sập. Cũng vì nhu cầu mà lộ
mặt người tham trong xóm là cha con ông
sáu Ngộ. Họ có ghe lớn hơn, đem ra cầu
sập làm đò, thu tiền qua lại của
bà con cũng bộn. Có tiếng đồn họ
cho nổ cầu để làm ăn thì không
biết thực-hư ! Nhưng từ đó suy
ra… Họ là ai ? Chắc phải sau “giải
phóng” mới biết !
Ông Hai Giao là sui gia với ngoại tôi,
cha của mợ Út. Mợ, bây giờ ẵm con về
nhà ông Hai sống với gia đình; vô
mùa lúa thì sang giúp ông bà ngoại
tôi gặt lúa. Mợ đi lại, sống ở
cả hai bên trong tình thương yêu,
đùm bọc… Tôi càng lớn càng
thương mợ tôi nhiều vì cứ nhớ lời
cậu Út dặn dò lần cuối cậu
đi… rồi không về.
Tôi đi trường Quận nên quần
áo tề chỉnh hơn, má Hai tôi may mặc
cho chứ nhà tôi nghèo lắm. Má sắm
luôn cho xe đạp để tự về nhà khi
tôi muốn về. Từ Quận về nhà
tôi chừng 15 cây số. Con đường tuổi
nhỏ của tôi là những vòng quay xe đạp
có bom mìn theo chiến tranh leo thang. Nhưng
tính tình lãng đãng của tôi
không quan tâm thời sự nhiều. Tôi lơ
mơ từ nhỏ. Mỗi tuần, tôi đi về
trên chiếc xe đạp một mình và
mơ mộng…
Tôi không đi đò của cha con
ông sáu Ngộ không phải vì không tiền
mà tôi chỉ thích được em mợ
Út chở qua sông. Mỗi lần về tới cầu
sập là tôi ghé thưa ông Hai Giao trước,
thăm mợ Út (nếu có đó). Nhưng
thực lòng tôi muốn gặp em mợ Út
là dì Nhàn. Năm đó, dì 17 tuổi,
tôi 13. Nhưng không biết sao tôi ưa
nhìn dì không chớp mắt. Dì đưa
tôi qua sông làm xao xuyến tâm hồn mới
lớn còn hơn sóng sông cầu Đồn.
Tôi nhớ từng lọn tóc dì Nhàn bay
theo gió chướng; cười như sóng vỗ
mạn ghe, nụ cười trắng nõn hai hàm
răng đều như hạt bắp đã hớp
hồn thằng nhỏ đi tỉnh về đã biết
chút tivi, phim ảnh nước ngoài. Dì
thương tôi như đứa em ngoan hiền ưa
mua về cho chị những bản nhạc Bolero mà
dì ưa thích, như “Căn nhà màu
tím - Chiều nhìn ra đầu ngõ…”
Biết dì có nghĩ tới tôi không?
Tôi thắc thỏm mỗi chiều trên trường
Quận khi chạng vạng cuối ngày…
Mùa hè năm Đệ thất (lớp 6).
Tôi qua nhà ông Hai Giao thường như cơm
bữa. Ai cũng nói cái thằng tình nghĩa
từ nhỏ, nó thương mợ Út nó
hơn má, nó thương em họ nó như
anh em ruột… tôi coi con nhỏ bé con cho mợ
làm công chuyện đầu tắt mặt tối
bên gia đình mợ. Nhưng đâu ai biết
tôi chỉ mong dì Nhàn thăm hỏi tới
tôi. Tôi được ở bên dì
lúc nào là tôi vui lúc đó. Hai
dì cháu nhưng có lúc gọi nhau là
chị em mà chị em thì đúng hơn
dì cháu. Thỉnh thoảng, được lệnh
đi chợ với dì là niềm vui lớn nhất
lúc bấy giờ. Tôi ngồi đầu ghe,
nhìn dì buông dầm, cười nói…
là những lúc hồn tôi mơ màng nhất.
Dì Nhàn đẹp nổi loạn hơn mợ
Út tôi thùy mị, hơi nghiêm. Cứ mỗi
nhịp chèo đôi, dì dang rộng hai
cánh tay ra theo nhịp chèo, người rướn
tới theo nhịp chèo làm loạn nhịp tim
tôi, hồn vía tôi lên mây. Mới 13 tuổi
đầu, tôi chưa biết nghĩ xa hơn… Chỉ
biết dì tôi đẹp và đem dấu trong
mơ.
Hết hè, tôi đi Đệ lục (lớp
7) trên trường Quận. Má Hai với dượng
Hai cứ nói tôi lớn rồi ! Ít nói
mà ưa trầm ngâm… không ai biết
tôi nhớ dì Nhàn tha thiết ! Tôi cứ
trông cuối tuần để dông về nhà
mà chủ yếu là gặp dì Nhàn cho
đỡ nhớ, rồi đi. Có hôm dì
cháu ngồi cạy dừa nước ngoài
hè nhà ông Hai Giao. Tôi nhìn dì
trân trân tới quên trời đất ! Mợ
Út nhìn tôi mà tôi đâu hay, mợ
hỏi tôi: “Mày nhìn dì Nhàn
mày cái gì mà nhìn trân trân vậy
nhỏ ?” Tôi xấu hổ quá ! Đỏ mặt.
Từ đó, tôi không dám nhìn
thẳng gương mặt dì Nhàn như trước,
nhưng càng nhìn lén càng nhớ nhiều
trong những buổi tối - học bài xong ở
nhà má Hai tôi. (Có lần dì leo dừa
vì không có tôi ở đó. Tôi
đến thì dì đang vặn từng trái
dừa trên ngọn cây, thả rơi. Tôi nhặt
được cái kẹp tóc của dì
rơi xuống. Dì quên luôn khi đã tuột
xuống cây; tôi dấu luôn chứ không trả
lại.) Tôi chỉ có cây kẹp tóc của
dì Nhàn làm bùa hộ mệnh khi nắng
khi mưa trên Quận lỵ buồn hiu. Tôi
trông hè tới để về nhà. Trông
mòn mỏi rồi hè cũng tới. Tôi về
nhà với một cuốn tập dấu không chỗ
dấu, đốt không nỡ đốt, mà trao
không dám trao… Tôi viết hết nỗi
lòng 14 thương thầm nhớ trộm dì
tôi.
Tôi về phụ việc nhà cho má
tôi cũng là ruộng vườn, sang phụ
bên ngoại cũng ruộng vườn, sang phụ
bên mợ Út là nhà ông Hai Giao cũng
ruộng vườn nhưng tôi làm không biết
mệt ! Tự có dì Nhàn vét ao - bồi
bờ với tôi. Dì là con gái quê
nên không ngại nắng mưa, sình đất…
hai dì cháu cứ tò tò bên nhau mà
mình đâu hay những đôi mắt trần
gian ! Đang ngồi nghỉ xả hơi bên gốc dừa
ở bờ ao, mợ Út tôi xách ra cho mấy
cái bánh ít để ăn giở bữa.
Bà Hai Giao đang gom cột lá dừa khô
thành bó để chụm, ở bên kia bờ.
Bà thả sang đây bờ tự mợ Út gọi
“Má qua ăn bánh ít với tụi
con”. Bà Hai nói trỏng không… “Thằng
Tâm dạo này lớn bộn rồi nghe Thanh (mợ
Út tôi tên Thanh) coi bộ nó mặn con
Nhàn dữ rồi đa !...” Mợ Út trả
lời: “Má nói gì kỳ vậy!...”
Bà Hai không chịu: “Tao đẻ ra
bay…” Tôi nhớ hoài gương mặt
dì Nhàn thoáng mắc cỡ. Dì nhìn
tôi hôm đó… khác khác làm
sao ?!
Tôi đi nhập học Đệ ngũ (lớp
8) với cõi lòng tan nát ! Muốn bà Hai
đừng nói ra lòng tôi nhưng lại muốn
một mình dì Nhàn hiểu tôi thôi.
Trong tuần thì tôi mong cuối tuần để
về, cuối tuần thì tôi không dám về
vì sợ bà Hai. Để rồi đầu tuần
lại mong cuối tuần…
Má tôi trách tôi: “Mày lớn
rồi ! Đừng ham chơi trên Quận. Cuối tuần
thì về phụ giúp ba mày một tay. Ổng
khập khiễng chân rưỡi mà lo hết ruộng
nhà, còn cáng đáng luôn mọi chuyện
bên ngoại. Cậu Út mày trông nhờ
mày mà Tâm ! Mày biết suy nghĩ
hôn?...” Tôi khóc một mình ngoài bờ
sông tới tối. Tôi đâu có làm
biếng bao giờ ! Tôi muốn về nhà và
đâu muốn đi xa, nhất là từ khi
dì Nhàn ló mặt ra đường thì hết
người quen, kẻ lạ cứ bông đùa
như kim chích vào lòng tôi đau lắm !
(Buồn quá ! Cho tôi xin ly rượu…)
Ông Tâm làm ngụm rượu bạn
đưa. Ông lại quay về dĩ vãng xa
xưa…
Tôi đi miết tới tết năm 1975.
Không ai biết tôi buồn tới muốn chết
nhiều lần. Má tôi nhắn tin gọi về
mà tôi không về ! Má tôi lên tới
nhà má Hai, làm cho tôi một trận.
Má Hai bênh tôi… “Thằng nhỏ học
không kịp với với anh Hai mày, ổng bắt
nó học thét nó điên ! Toán,
lý, hoá… rồi Anh văn ngày đêm
sáng tối. Mày ở lại đây đi !
Mày ở lại đây đi !... Chống mắt
mày lên mà coi ! Ổng về là nói tiếng
Anh với thằng Tâm chứ đâu thèm
nói tiếng Việt. Nó trả lời không
xong thì mặt ổng một đống như đống
cứt trâu. Nó với con Nhiên (Con má Hai
tôi) vừa học vừa khóc… tới tao
khóc theo.” Má tôi dù gì cũng
là em má Hai nên không dám cãi !
Má đi về, không ăn cơm trưa nhà
má Hai. Tôi buồn có lý do lần đầu
trong đời tôi.
Tết năm đó (1975) tôi về nhà
vì không thể không về. Tôi không muốn
về vì nghe dì Nhàn đã có người
ta ! Tôi về quê với tâm khảm rã rời…
Dì đưa tôi qua sông mà lòng
tôi tan nát khi nghĩ tới ai ta ! Sao lại
là ai mà không là tôi với tràn trề
niềm mong nỗi nhớ. Sang tới bờ bên
tôi, dì hỏi tôi: “Sao mày khóc
?” Tôi muốn nói lắm ! Nhưng rồi lại
thôi.
Công việc của một thằng trai
đã lớn trong những ngày giáp tết
mà hoàn cảnh cha yếu, ngoại già.
Tôi không còn hơi sức để buồn
riêng. Đang tát đìa kiếm mớ cá
ăn tết, dì Nhàn đâu trên trời rớt
xuống, xắn quần, ùm xuống đìa
giúp tôi mò lẹ để thôi người
ta mò hết ! Dì giúp tôi một chập
lâu, ào ra sông tắm rửa rồi về.
Dì để lại cho tôi hy vọng mùa
xuân… “Mai, mày quởn thì đi
Sài gòn với tao. Tao đi mình… sợ
quá !”
Tối đó, tôi uống rượu đế
với cha tôi để say thì mới ngủ sớm
được ! Không say, chắc tôi không ngủ.
Cha không hiểu lòng tôi, cha chỉ dặn
là đừng nói với dượng Hai về
chuyện uống rượu. Dượng rầy luôn
tao. Cha tôi quen tính lính-xả láng. Dượng
tôi tính Thầy rồi bị động viên
thành công chức chính phủ, nên anh em cột
chèo thương nhau là một chuyện nhưng
chén ông ông bưng; ly tui tui cụng ! Lần
nào đám giỗ ở nhà ngoại thì
ba tôi cũng say rượu; dượng Hai cự
hoài.
Con đường đất đỏ, nắng bụi
mưa sình mà tôi ngao ngán mỗi bận
đi về. Đường về quê xa lắc
lê thê vì chỉ mình tôi trên
yên xe đạp. Khi gió chướng về
báo tết, phải cúi người rạp xuống
mà đạp. Khi mưa giông phải chừa một
tay vuốt mặt mới thấy đường, tôi
chở đi chở về nỗi nhớ dì
tôi… Hôm nay là ngày trọng đại
nhất trong đời tôi với con đường
tuổi nhỏ. Dì ngồi yên sau, hai tay vịn
hông tôi nói cười như nắng vỡ. Sụp
ổ gà, dì ôm rịt lưng tôi làm
nóng mặt thằng trai mới lớn. Tết
này tôi 15, dì tôi đương độ
xuân nồng…
Hai dì cháu gởi xe đạp ở
quán nước quen ngoài ngã ba Ông Thạnh.
Đón xe đò lên Sài gòn trong những
ngày giáp tết đông vui. Đi xe bus vô
chợ Sài gòn đông nghẹt người tới
chen chân không lọt. Người ta lợi dụng
xe đông mà ăn hiếp cô gái quê
mùa. Dì đứng vào lòng tôi - đối
mặt. “Mày tháo dây chuyền tao ra đi,
để thôi người ta giật mất.”
Tôi nhớ hoài làn da thiếu nữ - trong
đời. Dì nhét hết tiền vô túi
quần tôi vì sợ móc túi. Từ
đó, dì đứng trong lòng tôi để
cả đời thằng tôi nhớ hoài hơi thở,
mùi da, hương tóc…
Chúng tôi tới chợ Sài gòn,
ăn chơi thoả thích vì dì có nhiều
tiền lắm ! Sau đó đi chơi mà cả
hai cũng không biết đi đâu ? Đi bộ
hết đường này qua lối khác để
ra tới bùng binh Nguyễn Huệ, lớ ngớ hai mặt
nhà quê. Ông thợ chụp hình gạ
được mối bở, ông chụp cho dì
vài tấm chân dung có hậu cảnh là rạp
Rex, bồn nước phun giữa Sài gòn hoa lệ…
một tấm chụp chung hai dì cháu đứng
sát bên nhau nhưng không có quàng tay
gì hết. Ông thợ chụp hình hẹn ba tiếng
đồng sau trở lại lấy hình theo yêu cầu
của dì, nhưng dì phải đồng ý
trả tiền gấp ba vì lấy gấp.
Dì hỏi thăm ông thợ là muốn
mua đồng hồ đeo tay thì phải đi tới
đâu ? Ông thợ chụp hình gọi
xích lô và dặn bác xích lô
già đưa chúng tôi đi mua đồng hồ,
xong trở lại đây. Dì tôi mua một
cái đồng hồ đeo tay tự động của
đàn ông mới khó hiểu ! Cái đồng
hồ Seiko 5 tự động biết bao nhiêu tiền
lúc đó. Tôi không mơ cái đồng
hồ cho mình mà buồn vô phương
vì dì sẽ tặng ai ? Cái đồng hồ
nam thì không phải mua cho dì !
Bác xích lô hoàn thành nhiệm vụ,
chở chúng tôi về lại rạp Rex. Bác
chỉ qua đường, bảo vô Eden coi phim đi,
phim hay lắm đó. Coi phim xong là tới giờ
lấy hình. Chúng tôi nghe lời bác.
Vô rạp hát tối thui… chưa bao giờ
dì cháu tôi ngồi gần với nhau đến
thế này. Dì nắm tay tôi khi sợ hãi
bạo lực trên màn ảnh, dì ngả đầu
lên vai tôi vì phim ngoại quốc coi không
đã bằng coi tuồng cải lương…
dì ngủ quên trên giấc mơ này.
Tôi hôn lên gò má dì tôi theo bản
năng gốc chứ không phải mình. Tôi biết
mình không có trong tâm tưởng dì
như ý muốn. Tôi chỉ hôn mối
tình câm của mình trước lúc chia
xa. Dì tặng ai cái đồng hồ trong dịp
xuân này thì người đó… mới
không cần hôn lén.
Dì mở trừng mắt nhìn tôi !
“Thằng quỷ, mày bắt chước người
ta… tao giã mày bây giờ.” Tôi
không xin lỗi mà ngồi im, hai dòng nước
mắt tôi xin lỗi thật dài… Dì hiểu
tôi, thương tôi. Nhưng không phải
tình thương mà tôi mong muốn. Dì
quàng tay qua tôi thật lâu. Tôi ngây ngất
trong tóc hương của dì tôi mà nhiều
năm sau tôi còn dị ứng mùi dầu dừa.
Tôi ước gì hai người hoá
đá để “đừng nói xa nhau cho
tâm hồn đau khổ…” như bản nhạc
tôi đã mua cho dì. Tôi đang nghĩ
câu cảm ơn sao cho xứng đáng thì
dì buông tôi ra… để hụt hẫng cả
đời tôi về sau. “Mày khờ quá vậy
Tâm. Mình là dì cháu. Tao thương
mày như bà con ruột thịt. Sao mày
làm vậy !...” Nói xong lòng dì
mà chẳng biết cho lòng tôi. Dì đứng
dậy, ra về. Tôi theo sau. Người nhân
viên rạp hát rọi đèn pin cho chúng
tôi ra khi phim chưa dứt. Tôi nhắc đi lấy
hình nhưng dì không muốn lấy, dì muốn
về.
Đường về thênh thang gió chướng
mà tôi nghẹt thở theo từng vòng quay xe
đạp. 15 cây số tương đương với
15 tuổi đời lê thê đường về
để mãi mãi cách xa. Tôi đạp
hoài không tới vì tôi đem về cho
người khác niềm vui. Tôi đạp
hoài cũng tới chỗ chấm hết tình
tôi thuở nhỏ.
Những ngày tết cuối cùng ở
quê xưa, cậu Công (con ông Xã trưởng)
ghé chúc tết ngoại tôi. Cậu là bạn
học với cậu Út tôi, cùng đi trường
Sĩ quan Thủ Đức. Nay, cậu tôi không
còn nên cậu Công cũng không màng
địa vị xã hội của cậu ở địa
phương (Cha làm Xã trưởng uy nghi, con
là Sĩ quan quân lực, oai phong… thành
tích chiến đấu oai hùng trên ngực
áo cậu. Ở nhà ông Xã trưởng
có tờ báo dán trên tường về
trận đánh mà cậu Công chỉ huy). Cậu
oai phong lẫm liệt hơn giấc mơ thôn nữ ở
quê tôi nhiều lắm. Cậu trong mắt tôi
là người cậu tôi thương mến thật
lòng như tôi thương cậu Út và
không bao giờ thay đổi. Cậu Công dễ
thương và đáng kính như những
ngày tôi còn cậu Út, tôi còn nhỏ
lon ton theo cậu Út với cậu Công đi
phá làng phá xóm dàng trời.
Cậu Công đến chúc tết ngoại
tôi, tay đeo cái đồng hồ Seiko 5 mới
toanh. Nhưng tôi thề không oán giận cậu
tôi. Cậu Công với dì Nhàn như Rồng
với Phụng ở nơi này. Tôi chỉ
là con nít-không hơn.
2.
Biến động thời cuộc sau tết '75.
Dượng Hai không cho tôi về nhà nữa
vì lý do an ninh ở địa phương
ngày càng tồi tệ. Tôi cũng không muốn
về vì lòng tôi đã tan nát như
xác pháo xuân sang. Tôi theo gia đình
dượng Hai đi di tản vào những ngày cuối
cùng của miền Nam thất thủ. Mới 15 tuổi
đầu đã như cây dừa tróc gốc-mặc
tình trôi. Cây dừa trôi là hình ảnh
tôi 15 tuổi vĩnh biệt quê nhà, chưa biết
về đâu ?
Cuộc sống mới với những đổi
thay về thời tiết, ngôn ngữ, thực phẩm…
không được càm ràm khi thấy dượng
Hai tôi đi làm hai job, má Hai tôi cũng tất
bật đi làm, về nhà thì tối mặt
với đàn con còn thêm thằng cháu.
Tôi muốn giúp dượng Hai bằng cách
đi xin việc làm cũng không được
vì mới 15 tuổi. (Trong gia đình tôi, con
cô con cậu, con chú con bác, cứ đứa
nào lớn hơn thì làm anh/ chị chứ
không tính theo vai vế). Tôi với em Nhiên
chịu sức ép kinh hồn trước những
đổi thay. Chịu đựng khó khăn ở
nhà không bằng chịu đựng sự kỳ
thị trong trường học, tới khi hai đứa
hoàn thành chương trình Trung học (High
School) ở Mỹ. Nhiên học tiếp và học
tới không biết bao nhiêu bằng Đại học.
Tôi chỉ cầm được mảnh bằng 4
năm vì gia đình tôi vượt biên
sang đảo năm 1978. Tôi bảo lãnh gia
đình sang đây khá dễ vì năm
đó tôi còn tuổi vị thành
niên. Hoàn cảnh biến tôi thành lao động
chính trong nhà nên việc học có
khó khăn. Nhưng tới khi cha tôi hội nhập
được thì tôi đã lười chứ
không còn siêng học nữa.
Được đoàn tụ với gia
đình thật là vui vẻ, dù hồi
còn bên Việt Nam
thì tôi cũng đã không sống với
gia đình, nhưng không có cảm giác
con mồ côi ! Những bữa ăn tạp nhạp
mà má tôi đã cố công dùng
nguyên liệu Mỹ để chế biến
thành món Việt Nam trong hoàn cảnh
chưa có nhiều người Việt nên chợ
búa hiếm hoi. Sau những bữa ăn… trợn
trừng mà nuốt ! Má tôi cho biết:
“Ông ngoại tôi mất năm 1976 vì biến
loạn bên ngoài mà nặng hơn là gia
biến trong nhà. Bà ngoại tôi buồn cậu
Tư không cho thờ cậu Út trong nhà
nên bà ngoại biếng nói, biếng
ăn… thăng luôn theo ông ngoại tôi,
năm 1977. Cậu Tư ở bưng về, làm lớn
vì cậu có học chứ không mù chữ
như giải phóng quân nông dân. Cậu
đã có vợ là một nữ đồng
chí của cậu trong chiến khu. Bây giờ, cậu
Tư ở nhà ông bà ngoại. Cậu
không cho thờ cậu Út vì theo phe Quốc
gia. Mợ tôi đem bát nhang với ảnh thờ
cậu Út về nhà ông Hai Giao để thờ
chồng.
Ngoài cửa nhà ngoại - chuyện xóm
làng thì ông Xã trưởng đi tù,
cậu Công đi cải tạo với cấp bậc
Trung úy - không biết ngày về. Dì
Nhàn đã quên cậu Công và sẽ
làm đám cưới với con trai ông
sáu Ngộ - Bây giờ, đang làm cán bộ
địa phương vì có công với
cách mạng. Cha con họ chính thức nhận
công trạng giật mìn cầu Đồn năm
xưa…”
Tôi giận dì Nhàn phụ bạc cậu
Công, nhưng tôi thương nhớ dì trong
tình cảm riêng tôi. Đời sống Mỹ
thoáng hơn quê nhà về chuyện trai
gái, phần tôi cũng trưởng thành rồi.
Nhưng tôi không tìm được rung động
nào ngoài nỗi nhớ dì tôi. Những
người bạn gái đến với tôi đều
lặng lẽ ra đi vì cái bóng dì
Nhàn quá lớn làm họ tủi thân
mà bỏ tôi. Một cô bạn Mỹ cho hay
cô ta có bầu với tôi sau một
đêm say mèm mà tôi ngủ lại
nhà cô ta. Tôi không nghe lời bạn
bè xui đem đứa nhỏ đi thử máu
để xác định xem có đúng con
tôi hay không ? Tôi không quan trọng chuyện
đó vì đằng nào cô bạn cũng
thuộc thành phần thích ăn chơi, mê cờ
bạc, rượu chè… Tôi cung cấp tiền
child support cho đứa bé tới trưởng
thành cũng là giúp nó có cuộc
đời. Tôi không cần biết nó là
con ai ! Dĩ nhiên, tôi không sống với
cô bạn Mỹ mà tôi không tin tưởng
ở khả năng nuôi con của cô ta, nói
gì tới lo cho tôi miếng ăn giấc ngủ.
Đặc biệt là tình cảm thì
chín phần không có; một phần bạn
bè không đủ để xây dựng gia
đình.
Những đứa em tôi thành tài, lập
gia đình, để trơ trọi lại anh Hai
Tâm đi về với ba má. Tôi vui được
lần đầu - từ khi tới Mỹ là tin cậu
Công được thả về. Thời gian sau, vui
hơn với lá thơ hiếm hoi mà mợ
tôi gởi cho má tôi: “… Ba má em
đã mất vì tuổi già. Con Nhàn
đã có hai con với thằng Nhân (con trai
ông Sáu Ngộ). Anh Công đã về
như cái bóng ma vì cha anh ấy cũng
đã mất trong tù. Anh Công có tới
thăm em nhưng cậu Tư cảnh cáo !...”
Cha tôi đoán việc như thần !
“Thằng Công với con Thanh ở địa
phương bây giờ như hai cái gai trong mắt
thằng Tư nhà mình. Thể nào nó cũng
trù dập hai đứa tới chết…” Cuối
cùng là má tôi với má Hai gởi tiền
về cho mợ tôi tìm đường vượt
biên. Mợ đi hoài không thoát vì
như duyên nợ ở xứ cầu Đồn giữa
cậu Út tôi, cậu Công, cậu Tư. Ba
người cùng thời đều ngắm nghé mợ
tôi nhưng cậu Út hên hơn. Bây giờ,
hoàn cảnh của mợ tôi với cậu
Công ở địa phương như hai người
chết đuối, dựa vô nhau mà sống lay lắt
qua ngày. Nghe nói: Mợ tôi giúp cậu
Công cũng nhiều, sau khi cậu ra tù. Cậu
chán nản một thời gian rồi làm lại
từ đầu… Cậu tài giỏi hơn
người thì hoàn cảnh cũng không
làm khó được cậu nhiều. Tôi
đoán tình cảm phát sinh giữa mợ
tôi với cậu Công là lẽ tất
nhiên. Nên khi có chương trình đi
định cư diện H.O. thì cậu Công lập
tức làm đám cưới với mợ
Út tôi.
Cậu mợ tôi đến Mỹ trong sự
hoan hỷ của gia đình. Tôi nhiệt tình
giúp cậu mợ ổn định cuộc sống.
Bao nhiêu tình cảm thương yêu, quý mến
mợ tôi và cậu Công bị dồn nén
lâu năm - tôi như cá gặp nước -
chẳng tiếc gì công của với cậu mợ.
Tôi sống vui không được bao lâu, rồi
lại buồn hiu hắt khi cứ nhìn con em họ
mà tôi ẵm nó thuở nhỏ, nó giống
dì Nhàn như hai giọt nước. Tôi cứ
tưởng tượng trên mình nó không
phải là cái quần jean, áo thun mà
là cái quần đen, áo bà ba, đội
cái nón lá… thì tôi vỡ tim
có ngày vì nó hệt như dì
tôi.
Gia đình cậu mợ tôi mau đi
vào ổn định vì cậu Công giỏi từ
đó giờ, lại thêm sự giúp sức của
toàn gia từ dượng Hai má hai, tới cha
tôi má tôi, những đứa cháu
đã lớn - luôn sẵn lòng với cậu
mợ vì chúng tôi hiểu được cậu
mợ thật sự là người nhà chứ
không coi cậu Công như người dưng
và mợ tôi chẳng còn quan hệ gì khi
cậu Út tôi đã qua đời.
Tôi hiểu hơn về quan hệ người
Việt mình khi nghe cha tôi nói câu… người
dưng có ngãi ta đãi người dưng/
chị em vô ngãi thôi đừng chị em.
Ý cha nói với má Hai và má tôi
không phải bận lòng, khổ tâm về cậu
Tư tôi ! Chị em ruột thịt nhưng cậu
có coi mấy người chị ra chị đâu
?
Con đường cách mạng cong cong của cậu
Tư đã tới hồi tịt lối theo luật
đào thải là nói cho sang/ nói
đúng với Việt cộng là vắt chanh bỏ
vỏ. Cậu tung hoành ngang dọc gì ở Việt
Nam
thì tôi không biết ! Chỉ biết cậu muốn
gia đình giúp cho con cậu sang đây du học.
Ai cũng nhìn tôi như người có
hoàn cảnh, điều kiện… tôi biết
nhìn ai hơn là nhìn mợ tôi. Mợ
tôi nhìn chỗ khác để cậu Công
phải lên tiếng: “Thằng cha nó thế
nào thì kệ cha nó. Thằng con nó vẫn
là con cháu trong nhà…” Tôi không
lầm cậu Công từ hồi tôi còn nhỏ
là vậy ! Con người quảng đại của
cậu không có lòng thù vặt như kẻ
thù của cậu. Không lẽ đó là nền
tảng của thất bại mà đời này cậu
đã vô phương gỡ gạc.
Thằng con út của cậu Tư tôi qua Mỹ
du học. Nó không được đón tiếp
như cậu mợ tôi trước đây là
lẽ thường. Ngoài tôi với cậu
Công quan tâm đến nó vì liên hệ
họ hàng chứ không có cái thâm
tình như tôi với cậu Út, cậu
Công, mợ tôi. Cố gắng bao nhiêu cũng
không có được tình cảm như
mình mong muốn là thật sự Quốc-Cộng
trong một gia đình. Tôi không giải
thích được tình cảm của mình
thì làm sao giải thích được
tình cảm của toàn gia ưu ái hai đứa
con nhỏ của cậu Công với mợ tôi.
Làm như chỉ có hai đứa nhỏ
đó mới là con cháu trong nhà, con cậu
Tư chỉ có chung họ chứ không chung gia tộc;
không phải thân quyến. Đến là
người Việt. Quốc-Cộng không đội
trời chung ngay từ trong một gia đình.
Thằng Út con cậu Tư tôi có bản
lãnh. Nó học hành khá, tham gia sinh hoạt
cộng đồng của người Việt hải ngoại.
Nó mang tư tưởng cấp tiến, thời đại
hơn thế hệ cách mạng hồng hơn
chuyên của cậu Tư. Tôi cũng hy vọng
đến thế hệ nó lãnh đạo đất
nước thì Việt Nam có thể khá
hơn vì nó quan tâm tới dân trí,
kinh tế xã hội hơn tư tưởng
Mác-Lê. Tôi có thể ngồi nói chuyện
với nó hàng giờ, cậu Công giúp
đỡ nó tiền bạc còn tình cảm của
cậu giành cho nó thì thầm lặng trong
lòng cậu thôi.
Thế là tôi nghe lời bọn xấu ! Con
nhỏ em - con mợ tôi nói thế ! Nó
trách tôi bao năm không về, sao tết
này lại theo thằng con cậu Tư về quê
ăn tết ? Tôi nghĩ kỹ thì con em nói
phải ! Tôi chả có gì đề về
ngoài lý do tạm chấp nhận được
là cũng về một lần để thắp cho
ông bà ngoại cây nhang. Nếu có
lòng như thế thì sao không về từ nhiều
năm trước ?! Nhỏ em không hiểu chính
nó mang hình hài dì Nhàn làm xao xuyến
lòng tôi vô cớ mỗi khi ghé nhà cậu
mợ tôi ăn cơm hay vui chơi. Thì thôi.
Tôi cũng về một lần để nhìn lại
cây cầu đã gãy, tuổi nhỏ không
còn và tình tôi dạo nọ !
… Con đường nắng bụi mưa
sình của hơn ba mươi năm về trước
đã trải nhựa đen để không
còn cái ổ gà nào cho tôi cỡi xe
đạp bương qua, cho dì Nhàn cười
như nắng vỡ, cho lưng tôi cảm giác lạ
kỳ. Hai bên đường không còn những
cánh đồng gió chướng, nghĩa địa,
hàng dừa… không còn cây cầu
nào để nghe tiếng bánh xe ngựa cán
qua miếng ván bong đinh mà nhớ đến một
thời thơ ấu. Con đường tuổi nhỏ của
tôi đã lột xác nắng bụi mưa
sình, nhưng lớp nhựa đường đen thủi
đen thui phải gánh vác quá nhiều xe gắn
máy và người điều khiển xe
không tôn trọng luật giao thông. Họ nghĩ
sao lái vậy như tranh nhau lên Thiên
Đàng ! Tôi nhìn đám nhỏ đi học,
những vòng quay xe đạp của con nít đến
trường bây giờ không còn lăn
trên đường mòn, không có bom
mìn và chiến tranh leo thang như xưa. Nhưng
liệu âm nhạc nhảm nhí từ hàng
hà quán xá bên đường vọng ra,
có làm cho tuổi nhỏ trong sáng, hồn
nhiên như cha anh dạo nọ ?! Những căn
nhà mọc vội bên đường với kiến
trúc theo Tây hoàn toàn không hợp với
không gian đồng ruộng. Nét kệch cỡm của
những căn biệt thự tự phát đã
hùng hồn chứng minh cho sự giàu
nổi ở quê tôi nói riêng, Việt
Nam
nói chung. Một thành phần quyền thế cộm
lên trong đám dân đen bần hàn
là những túp lều tạp nhạp để
hình thành một tổng thể nham nhở,
xô bồ… phá vỡ cái cũ của
đồng quê muôn đời nhưng xây dựng
cái mới thì không phù hợp do
trình độ, kiến thức yếu kém. Chỉ
thể hiện rõ ra khoảng cách
giàu-nghèo ở Việt Nam đã đến mức
ngoài tưởng tượng.
Tôi về đến nhà ngoại tôi -
sau hơn ba mươi năm xa cách. Căn nhà
trong tưởng tượng của tôi hoàn
toàn không còn nữa. Căn nhà lầu ba
tầng nguy nga tráng lệ. Có xe hơi đậu
sân trước, hồ bơi nước ngọt xanh
biếc sân sau… Tôi nhìn bốn bức
tường rào kiên cố mà tính ra số
gạch, cát, xi măng của bốn bức tường
rào có thể xây được vài
cái nhà tình nghĩa cho gia đình có
công với cách mạng thôi chứ không
dám mơ tới những gia đình khó
khăn kinh tế. Lòng tôi tự hỏi mình: Cậu Tư tôi đi
làm cách mạng để có xe hơi
nhà lầu hay giải phóng cho nông dân ?!
Tôi không thấy miếng ruộng của
ông bà ngoại mà cha con tôi đã cầy
cuốc một thời, má tôi với mợ
tôi đã còng lưng cắt lúa… Cậu
Tư không nói thì tôi cũng có mắt
để biết là cậu đã bán cho Khu
công nghiệp của Đài Loan với tiền
đô la tính ở mức trăm ngàn, bạc
triệu không chừng. Ý nghĩ đầu
tiên là tôi với cậu Công đã bị
lừa ! Hai người đỡ đầu cho thằng em
họ (con cậu Tư) tôi ở Mỹ với ý
nghĩ đơn giản là đầu tư cho thế
trẻ mở mang kiến thức ở nước
ngoài để trở về xây dựng lại
quê hương. Thật không biết
cậu Tư tôi lừa cậu Công đến bao
giờ ? Người Cộng sản lừa người Quốc
gia đến bao giờ ? Cậu Tư sống trong nhung lụa
mà đi gạt cậu Công bấm thẻ ăn giờ
để nuôi con mình ăn học ở Mỹ
thì chỉ có đạo đức của người
Cộng sản mới làm được.
Tôi không có lý do gì để ở
lại trong căn nhà này, dù sự tiếp
đón không tệ. Kế đến là
cái hay của mợ Tư tôi. Mợ than van
không biết ngượng miệng. Than nghèo khổ,
mang ơn tôi với cậu Công còn chút
tình gia tộc mà lo lắng, bảo bọc cho
đứa con đi học xa nhà của mợ.
Tôi nghĩ tới một câu nói nào
đó để tắt đài gian dối,
điêu ngoa sở trường của người Cộng
sản. Nhưng nghĩ cho cùng thì nói
làm chi ? Cậu Út tôi, rồi sau này
là cậu Công, hai người đàn ông
đường hoàng, tự trọng thì mợ
Thanh tôi ngay thẳng, dịu dàng. Người
đàn bà làm vợ cậu Tư tôi
có thể có bản chất hiền lương
khi xưa. Nhưng theo Bác Đảng, lấy chồng
cán bộ thì biến chất cũng tất yếu
theo chiều hướng gần mực thì phải
đen. Trong mắt tôi, cậu mợ Tư mới
đúng là thành phần không thể cải
tạo ?! Chứ không phải cậu Công, mợ
Thanh.
Qua đêm ở căn nhà thuở nhỏ
để tìm chút không khí xa xưa,
tôi hoàn toàn thất vọng với tiếng
máy lạnh chạy re re nơi cửa sổ thay cho tiếng
phong linh với gió đồng dìu dắt những
giấc mơ làm người. Thằng em họ
đáng tuổi con tôi, không lo cho sức khoẻ
hay miếng ăn giấc ngủ của tôi mà
nó lo lắng về gia đình nó; cha mẹ
nó… trong mắt tôi.
Mặt trời rồi lên xoá tan đêm
dài, tiếng còi hụ vô ca bên Khu
công nghiệp thay cho tiếng gà báo sáng;
cột khói đen ô nhiễm mù trời của
nhà máy thay cho làn khói mỏng bốc
lên từ mái tranh xiêu…
đất nước vươn mình sao lòng
dân chìm ỉm. Ai không yêu quý
quê hương mình nhưng buồn vui còn
tùy ở sự vươn lên của toàn
dân hay chỉ một tập đoàn thống trị.
Tôi nhìn tôi trong gương khi
đánh răng buổi sáng. Thằng Tâm của
xóm cầu Đồn với thân hình chữ
V, những bắp thịt săn chắc… và ước
mơ. Đã đi thật xa với ước muốn
quay về nhưng chỉ còn ông Tâm với thân
hình chữ A, đầy mạng mỡ… và nỗi
lòng ! Đi qua chán vạn nẻo đường/
dừng chân đứng lại vô thường sau
lưng như câu thơ đâu đó
đã đọc và hình như đúng
nên còn nhớ. Người ta chỉ có thể
trở về đúng mảnh đất xưa chứ
không thể trở về con người lúc ra
đi.
Sau bữa sáng thịnh soạn hơn nhu cầu,
bữa trưa thừa mứa theo trào lưu tân
địa chủ. Mọi người chìm vào giấc
ngủ trưa là thói quen không có ở Mỹ.
Tôi lang thang như ngày xưa còn bé ra cầu
Đồn. Cây cầu nhiều kỷ niệm
đã chìm theo tiếng nổ xa xưa. Bây giờ
đường liền đường, tất cả
các cây cầu trên con đường tuổi
nhỏ của tôi đã bị lấp. Người
ta đặt cho mỗi con rạch vài miệng cống,
là cách giải quyết ít tốn kém
hơn thay cầu mới. Chuyện con nước có
phù hợp với cây lúa và môi sinh
hay không, không phải chuyện Nhà nước
quan tâm.
Đồn lính Nghĩa quân xa xưa
đã trơ trọi bốn bức tường
đá xanh do Pháp xây từ thời thực
dân. Những khoảng trống tầm nhìn từ
Đồn ra tới bờ rào kẽm gai của khu vực
quân sự đã mọc lên cơ man là
nhà. Nét bất khả xâm phạm của chốn
quân quyền đã tiêu tan để nhường
lại cho công quyền đổi chủ. Bây giờ
là Ủy ban nhân dân Xã với tấm bảng
nhạt phai mưa nắng mà chẳng ai thèm quan
tâm.
Nhà ông Hai Giao đã không còn
mái ngói đỏ au dưới những tàn
dừa cao rộng, bên con sông cầu Đồn.
Căn nhà cất lại đã xoá dấu uy nghi.
Dì Nhàn đã lưu lạc nơi đâu
? Tôi về chuyến này cũng có nửa
lòng tôi nghĩ tới dì là sự thật.
Tôi đến đó, vẫn là quán
nước xưa dù bàn ghế nhựa
đã thay cho bàn ghế gỗ ọp ẹp kiểu
quán cóc bên đường xưa cũ.
Người ta bây giờ đông vô kể.
Ngày xưa, một người lạ bước
chân vô xóm thì cả làng cùng biết
! Nhưng bây giờ thì ai biết nấy thôi
! Tôi đến quán nước như người
khách qua đường, người dân chờ chực
công quyền trong Ủy ban Xã đang nghiên cứu
xem có nên giải quyết ?!
Cảm giác làm người lạ trên
nhiều thành phố mà tôi đã đi
qua thì quen lắm rồi, nhưng làm người
lạ ngay trên mảnh đất mà mình thuộc
từng con nước, hàng dừa… thì thật
là không vui từ trong ý nghĩ. Người
phụ nữ xấp xỉ ba mươi, bưng cho
tôi ly cà phê rất vô tư (là từ
cửa miệng bên đó bây giờ). Cô
ta đang có mang nên hơi chậm chạp và
có vẻ mệt mỏi. Tôi không tìm thấy
nét nào trên gương mặt cô ta
hình dáng của dì tôi. Không biết
có phải con gái của dì không ? Hay chỉ
là người đã sang lại quán
này.
Và, dì tôi về tới nơi. Tay cắp cái rổ như vừa
đi chợ cho bữa cơm chiều. Người đẹp
trong mơ của tôi sau 33 năm xa cách là
bà già hom hem, tóc mai bạc trắng hai
bên thái dương đã nói lên
cơ cực từ ngày cách xa. Đôi mắt
trong veo như nước sông cầu Đồn, nụ
cười nắng vỡ, thân hình mảnh mai của
nhiều năm trước đã phai tàn.
Dì bày ngay cái rổ đi chợ về
bên hông nhà, có hàng lu nước ngọt.
Với con dao, cái thớt, cái ghế cóc bằng
gỗ đã thâm đen, bóng lưỡng.
Dì làm cá trong tiếng vo ve của ruồi,
quang quác của đàn gà tranh nhau vẩy
cá. Tôi muốn đến bên dì như
ngày xưa đã cùng nhau cạy hàng quầy
dừa nước, nước dừa nước ngọt
liệm cuống họng, cơm dừa nước thơm
ngon và kỷ niệm ngọt ngào khi nhớ về
xóm cũ, dì tôi.
Đứa bé trai chừng ba bốn tuổi, chạy
chơi lăng quăng, nó ào đến ôm cổ
bà và kêu bằng Ngoại. Bà ngoại
đang gọt trái khóm để nấu canh với
cá, ngoại cho thằng nhỏ cái cùi
khóm. Nó ăn ngon lành và lại bỏ
đi chơi… dì đứng dạy khi đã
xong xuôi công việc. Bưng hết vô bếp
để nấu bữa cơm chiều.
Ông già giữ xe bên Ủy ban bươn
bươn vô quán nhưng không phải
khách uống cà phê. Ông gọi thằng
bé ban nãy… “lại đây ngoại biểu.”
Thì ra đó là người gài mìn cầu
Đồn năm 1972. Thành tích lẫy lừng cỡ
đó, mà sau hòa bình chỉ được
chân giữ xe ở Ủy ban Xã, thì hơi hẻo.
Ông chắc chắn là ông Nhân - con ông
sáu Ngộ, chứ ông sáu Ngộ thì tuổi
ngoại tôi với ông Hai Giao thì làm sao
còn sống nổi. Nhưng ông Nhân nghĩa
là ngang hàng với các cậu tôi thì
ông quá già.
Tôi ngồi nhìn sông nước chảy
với thật nhiều rác rến lêu bêu,
cây cầu Đồn chỉ còn là con đập
với ba miệng cống lớn-cao hơn đầu
người. Những xoáy nước do con nước
lớn không qua đập kịp hun hút về
đâu ? Xác thú vật chết trương
theo gió bay lên bờ mùi hôi quá khứ
hay hiện tại ?! Tôi không về tốt hơn
là đã về để tận mắt thấy
lại quê cũ, người xưa mà lòng
tôi đã chắc là ám ảnh phần
đời còn lại của mình. Nhớ đứa
con gái tôi với cô bạn Mỹ, nó hằng
mong được thấy quê cha một lần -
nhưng chắc tôi không đưa nó về
đây chi nữa ! Hãy để ngày ấy lụi
tàn. Tôi trả tiền ly cà phê - không
dám uống vì không tin tưởng về vệ
sinh. Ly cà phê đá chỉ còn hai phần
nước đen và trắng như hai mảnh đời
lặn lội qua bể dâu. Nếu hoà tan với
nhau sẽ có một hỗn hợp màu nâu,
màu đó buồn nên thôi đừng quậy
!
Dì là người ra tính tiền ly
cà phê - dù tôi không uống.
Đôi mắt dì trong như nước sông cầu
Đồn - ba mươi năm trước. Giờ cũng
đục như nước sông cầu Đồn -
ba mươi năm sau. Dáng vẻ thanh mảnh của
dì như cây cầu Đồn - mà tôi
yêu quý. Giờ như con đập ứ hự
nước lớn nước ròng và rác rến
nhân gian. Tôi như con thú chết trương
chờ ngày mục rữa, chờ xoáy nước
vô tình hoá kiếp thân tôi. Dì
không nhìn ra tôi là vui buồn một lần
về quê cũ.
Tôi ở nhà cậu Tư không nhiều
vì không thích nên đi du lịch lung tung.
Tôi đi xuyên qua miền Trung, qua Hà Nội
để ra tới biên giới Việt-Trung một lần
để biết nước non tôi. Ngày trở về
Mỹ, tôi ghé ngang qua quán dì Nhàn.
Không gặp dì nên tôi trao lại cho cô
con gái có mang, ba tấm ảnh mà ngày
xưa dì bỏ lại Sài gòn. Tôi lặn
lội đi lấy hình để phải gìn giữ
thật kỹ suốt ba mươi năm ở hải ngoại.
Tôi có trong tay cuốn tập viết về
tình tôi năm 14 tuổi. (Tôi dấu ở
nhà ngoại tôi khi xưa, chính xác
là sau tấm hình thờ của cậu Út
để cậu sống khôn thác thiêng -
phù hộ cho tôi toại nguyện. Nhưng
đã không thành.) Mợ tôi đã phải
dọn bàn thờ cậu Út về nhà
ông Hai Giao khi cách mạng thành công.
Tình nghĩa với thằng cháu cưng của cậu
nên mợ tôi cất giữ cuốn tập đến
khi ra nước ngoài, trao lại cho tôi. Lần
này về, tôi muốn trao lại cho dì
tôi những kỷ niệm yêu dấu một thời.
Nhưng bốn tuần sống ở quê xưa,
tôi chỉ trao ba tấm hình để nhớ về
kỷ niệm. Tình tôi, có lẽ dì cũng
không nên biết chi nữa nên tôi thả xuống
sông cầu Đồn để quá khứ
trôi đi.
Xe hơi lăn bánh qua đập cầu Đồn,
tôi còn nghe tiếng ván bong đinh khập khềnh
theo vòng quay xe đạp. Nghe tiếng cười nắng
vỡ đâu đây, có quay lại tìm kiếm
màu mắt trong veo như nước sông cầu
Đồn - đã muộn. Chỉ có nước
mắt còn nóng khi vĩnh biệt quê
hương.
(Viết theo lời kể của bạn
tôi)
Phan
(Bai Chuyen)