TRÊN CHIẾN TRƯỜNG
XƯA
[33 năm sau ngày gãy súng]
Phạm Tín An Ninh
Hơn ba mươi năm sau, cùng với bốn
anh em trong đơn vị xưa, chúng tôi trở
lại Kontum tìm thăm nơi an nghỉ của những
đồng đội cũ. Trong những năm 72 và
73, đơn vị chúng tôi đã có
hơn hai trăm anh em vĩnh viễn nằm lại nơi
này để giữ vững miền địa đầu,
cửa ngõ quan trọng nhất vào Tây
Nguyên, nơi có bản doanh Bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn nằm không xa phía dưới
- thành phố Pleiku.
Dừng chân dưới chân núi ChuPao, nhớ
tới những trận đánh khó khăn ác
liệt với những toán địch quân bị
xích chân trong những hầm núi đá, cố
bám trụ những cái “chốt”, nhằm
cắt đứt QL 14, con đường huyết mạch
nối liền Kontum với Pleiku, và hình dung tới
từng khuôn mặt của những anh em đã
không bao giờ còn trở lại, một số
đã gởi xác thân lại cho rừng
núi nơi này, tôi xót xa khi nghĩ là
mình còn mắc nợ họ. Món nợ
máu xương không bao giờ trả được.
Ngày ấy chiến trường ác liệt,
có nhiều người lính phải hy sinh ngay khi
vừa mới bổ sung cho đơn vị, mà ban
quân số chưa kịp nhận hồ sơ lý lịch.
Đa số rất trẻ, độc thân, và gia
đình ở tận những miền xa, nên mồ
mả không có ai chăm sóc. Hơn ba
mươi năm rồi, qua bao nhiêu thăng trầm biến
đổi, có lẽ hầu hết các nghĩa
trang trong thành phố đã bị giải tỏa
từ lâu, và nếu có được cải
táng ở một nơi nào đó, chắc
trên mộ bia không còn ghi đơn vị cũ.
Chúng tôi đến đây như để
tìm lại chút kỷ niệm và mong
được vơi đi chút nào lòng trắc
ẩn, chứ chuyện tìm lại được mồ
mả của anh em - hy vọng rất mong manh.
Cả thành phố Kontum bây giờ
đã đổi khác. Khó khăn lắm
chúng tôi mới tìm được các
địa danh ngày trước. Những B12, B15,
Thành DakPha, Đồi Sao Mai, Bệnh Viện Dã
Chiến. Nơi có những bản doanh, căn cứ
từng mang tên những người anh, người bạn
anh hùng của tôi đã nằm xuống để
bảo vệ Kontum: Võ Anh Tài, Đặng Trung
Đức, Trần Công Lâm… Chúng tôi
tìm đến một số nhà quen lúc truớc.
Tất cả không còn. Những người
chúng tôi gặp đa số mới vào từ
miền Bắc. Người Kontum xưa giờ chắc cũng
đã tứ tán bốn phương trời. Tội
nghiêp cho người dân Kontum bất hạnh. Bao
nhiêu năm tháng hứng chịu chiến tranh,
có lúc thành phố bị mỗi ngày
hàng ngàn quả đạn pháo, vậy
mà họ vẫn ở lại, vẫn cùng với
những người lính chúng tôi giữ vững
thành phố này trong suốt những thời kỳ
ác liệt nhất. Nhưng rồi cuối cùng,
giữa tháng 3/75, Kontum bị bỏ rơi tức
tưởi khi không còn bóng dáng quân
thù. Những người lính ở đây
được lệnh tử thủ, ngăn chặn miền
địa đầu tam biên cho Pleiku di tản. Tôi
từng được nghe người Kontum kể lại
chuyện những người lính hào hùng, tự
sát vào giờ thứ 25, khi Kontum bị lọt
vào tay giặc. Nghĩ tới đó, lòng
tôi thấy nghẹn ngào, nước mắt cứ
trào ra.
Đúng như chúng tôi dự
đoán, tất cả mọi nghĩa trang trong
thành phố, nơi bạn bè tôi được
chôn cất, không còn nữa, người ta
đã giải tỏa để xây lên một
số cơ sở công quyền và những khu giải
trí.
Chúng tôi tìm đến Tòa Giám
Mục, cũng là nơi mà đơn vị
chúng tôi đã phải đổ khá nhiều
máu xương để tái chiếm trong
Mùa Hè Đỏ Lửa. Một vị linh mục
đứng tuổi, tiếp chúng tôi niềm nở.
Ông cho biết là, mồ mả trong các nghĩa
trang lúc xưa đã được cải táng
và chuyển đến địa điểm mới,
nằm trên cây số 9, đường lên
Tân Cảnh. Tuy nhiên chỉ có những
ngôi mộ có thân nhân nhận lãnh
và tự cải táng thì mới có mộ
bia, còn những ngôi mộ khác thì
không biết ra sao. Ngài còn tốt bụng, sẵn
sàng hướng dẫn chúng tôi đến
đó. Cây số 9, gần căn cứ Non Nước,
nơi ngày xưa đơn vị tôi đã
bao lần cùng với các chiến sĩ thiết
giáp hào hùng của Chi Đoàn 1/8 KB đẩy
lui những đợt tấn công biển người
của địch, giữ vững cửa ngõ vào
thành phố Kontum.
Mất gần hai tiếng đồng hồ, đi
khắp nghĩa trang, chúng tôi vẫn không
tìm ra bia mộ nào có cái tên quen. Nhiều
ngôi mộ không có bia. Đưa vị linh mục
trở lại Tòa Giám Mục, cám ơn
và chia tay ngài. Đã hơn 12 giờ trưa,
chúng tôi tìm một nơi nào đó
để ăn cơm. Nhớ tới quán ăn Bạch
Đằng và Thiên Nam Phúc ngày xưa,
nơi có mấy cô chủ quán dễ
thương, mà đám lính tráng
chúng tôi thường ghé lại đây
ăn uống sau những tháng ngày dài
hành quân trong núi, một anh bạn hỏi
thăm đường đến đó. Nhưng
quán bây giờ đã đóng cửa
và những người xưa cũng đã
trôi dạt về những nơi nào đó. Bọn
tôi rủ nhau ra bờ sông Dakbla, dọc theo con
đường về làng Tân Hương, nơi
lúc xưa có mấy cái quán nhỏ để
những ngày tương đối bình yên, bọn
tôi ra ngồi uống cà phê, ngắm dòng
sông chảy ngược, tạo huyền thoại một
thời này, mà nhớ tới vợ con hay người
tình đang ở đâu đó, để rồi
sau lúc chia tay chẳng biết ngày mai ai còn ai
mất. Dọc theo bờ sông bây giờ là những
hotel, nhà hàng, nhà trọ và biệt thự
của các ông quan lớn. Cuối cùng
chúng tôi cũng tìm ra được một
cái quán ăn bình dân, nhưng khá sạch
sẽ, nằm dưới tàng của một cây
trứng cá.
- Buổi trưa nên vắng khách. Bà chủ
vui vẻ vừa đón chúng tôi vừa giải
thích.
Chúng tôi chọn một cái bàn nhỏ
gần bờ sông. Xa xa phía bên kia là
làng Phương Hòa thật dễ thương ẩn
mình dưới những vườn cây. Nhìn
mấy bờ đê bên bìa làng, tôi nhớ
tới cái chết của người phi công anh
hùng Phạm văn Thặng. Tôi đã chứng
kiến phi vụ thật can trường này. Anh
là trưởng phi tuần gồm hai chiến đấu
cơ AĐ6, đánh bom vào một mục
tiêu có nhiều ổ súng phòng không của
địch. Anh lao phi cơ xuống thật thấp bắn
chính xác, tiêu hủy mục tiêu, tạo một
đám cháy và nhiều tiếng nổ phụ,
rồi bay lên từ trong đám lửa ấy.
Đang trên đường bay về, anh phát hiện
có nhiều đạn phòng không bắn
lên từ một khu vưc khác. Anh quay trở lại,
lao phi cơ xuống trút hết những quả bom
còn lại, rồi bay vút lên không trung.
Đúng lúc ấy, máy bay anh bị trúng
đạn. Cánh bên phải phát hỏa. Anh phi
tuần phó bay kèm theo, bảo vệ và hối
thúc anh nhảy dù ra. Bộ binh chúng tôi cũng
sẵn sàng tiếp cứu. Nhưng anh từ chối,
bảo là nếu anh nhảy dù ra, phi cơ sẽ
rớt xuống khu dân cư trong thành phố. Anh cố
gắng bay qua bên kia bờ sông, đáp khẩn
cấp (crash) xuống khu ruộng trống phía dưới.
Anh điều khiển thật tài tình, nhưng
vì phi cơ đã hư hỏng, không còn
theo ý muốn, đâm vào một bờ
đê và phát nổ. Anh Phạm văn Thặng
đã anh dũng hy sinh. Điều cảm động
hơn, khi người đại diện của Sư
Đoàn đến nhà anh để chia buồn
cùng gia đình và đưa anh đến
nơi an nghỉ cuối cùng, đã kể lại
cảnh nghèo nàn của gia đình anh, một
trung tá phi công của QLVNCH.
- Mấy ông anh từ xa tới. Chắc tính
làm ăn gì chứ cái thành phố
này thì có cái gì mà tham quan. Phải
không?
Câu hỏi của chị chủ quán
làm tôi giật mình. Mấy anh em khác im lặng,
nhìn tôi như thầm nhắc cho tôi cái
nhiệm vụ trả lời.
- Không, bọn tôi tìm thăm người
quen, nhưng không gặp.
- Ở khu vực nào, có nhớ địa
chỉ không ? Tôi sẽ tìm giúp các
anh. Tôi là dân ở đây mà.
Tôi mỉm cười :
- Cám ơn chị. Ở trong nghĩa trang
thành phố, nhưng đã bị dọn đi
nơi khác rồi, biết đâu mà tìm.
Chị chủ quán khựng lại chưa kịp
để thức ăn xuống bàn, nhìn tôi
ngạc nhiên :
- Sao lại phải ở trong nghĩa trang ?
- Vì họ đã chết rồi. Chết từ
năm 1972 lận. Tôi buồn bã trả lời.
- Vậy chắc các anh đây là
lính Cộng hòa mình ? thuộc đơn vị
nào ?
Nghe mấy chữ “lính Cộng hòa
mình” tự dưng tôi cảm thấy gần
gũi với người đàn bà xa lạ
này. Tôi thân thiện :
- Anh em bọn tôi thuộc sư đoàn 23,
trung đoàn 44 chị ạ.
- À, vậy có anh nào ở đại
đội trinh sát ?
- Không, bọn tôi ở trung đoàn
và tiểu đoàn. Một người trong
chúng tôi trả lời.
Sau một khắc yên lặng, chị lên tiếng:
- Em có mấy người bạn ở trinh
sát. Lúc trước cũng nằm trong nghĩa
trang thành phố, nhưng khi có lệnh giải tỏa,
em đã chuyển các anh ấy lên cây số
9 rồi. Chị chủ quán tỏ ra thân thiện
và thay đổi cách xưng hô.
Chúng tôi vừa bất ngờ vùa
xúc động. Sau khi dọn bàn xong, mang nước
trà ra mời chúng tôi, chị kéo ghế
ngồi xuống rồi tâm sự.
Thì ra chị là bạn gái của anh
Bình, trung sĩ Bình, ở đại đội
trinh sát của đại úy Minh, sau này
là đại úy Mạnh. Anh tử trận hồi
mùa hè 1972.. Ngày đó chị còn
đang đi học, nhưng chiến tranh ác liệt
quá, trường phải tạm đóng cửa.
Chị ở nhà phụ bán cà phê
cùng với người chị ruột. Bà chị
này quen khá thân với Mạnh. Khi ấy Mạnh
còn là trung úy đại đội phó.
Anh Bình thường theo Mạnh tới đây, rồi
dần dà quen nhau. Từ khi Bình chết, chị
thường đến thắp hương và chăm
sóc mộ phần Bình và những đồng
đội của anh nằm trong nghĩa trang thành phố.
Năm 1978, chính quyền Cộng sản ra lệnh
giải tỏa nghĩa trang, chị chạy khắp nơi
kêu gọi bà con cùng góp tiền góp
sức với chị, nhưng cũng chỉ kịp cải
táng hơn 20 ngôi mộ của những anh em Trinh
Sát về địa điểm mới. Hầu hết
mồ mả của những anh em chiến sĩ còn lại,
đã bị san bằng. Chúng tôi cảm động.
Không ngờ trong thời buổi nhá nhem tình
nghĩa, có lắm kẻ sớm vong ơn, phản suy
phù thịnh, vẫn còn có nhiều người
Kontum nặng tình với lính.
Theo yêu cầu của bọn tôi, chị
cùng chúng tôi đi thăm mộ anh Bình
và các anh em trinh sát. Hơn hai mươi
ngôi mộ được xây bằng đá
đơn giản, nằm bên nhau ở khu phía
đông nghĩa trang. Điều đặc biệt
trên các tấm bia, trước mỗi cái
tên đều có kẻ hai chữ TS. Chúng
tôi thắp hương cho từng ngôi mộ xong,
quay lại thì thấy chị đang ngồi sụt
sùi trước mộ anh Bình. Khi thấy bọn
tôi, chị lau nước mắt đứng dậy
và nói một mình:
- Thật tội nghiệp, anh ấy hy sinh khi
tìm cách chui qua hàng rào để bắn
hạ chiếc xe tăng của VC vừa đột nhập
vào chiếm bệnh viện
Tôi nhớ lại trận chiến ác liệt
này. Khi VC mở đợt tấn công thứ
nhì vào thành phố Kontum nhằm rửa hận
lần thảm bại ở tuyến tây bắc:
Hơn một trung đoàn bộ và nguyên một
tiểu đoàn xe tăng của sư đoàn 320
bị chúng tôi xóa sổ. Lần này
chúng dùng mấy chiếc M113 đã cướp
được của Sư Đoàn 22 BB từ khi
Tân Cảnh thất thủ, dẫn đầu một
đơn vị gồm những chiến xa T 54 + T59
có bộ binh yểm trợ, nhằm lừa phi cơ
quan sát của ta, xâm nhập vào bệnh viện
dã chiến, nằm cạnh thành DakPha, cách
vòng đai phi trường chừng 800 mét, với
thủ đoạn lợi dụng vào những thường
dân và binh lính bị thương nằm trong
bệnh viện, để uy hiếp lực lượng của
ta. Tiểu Đoàn 4/44 do Thiếu Tá Võ Anh
Tài chỉ huy đã đánh một trận
chiến vô cùng gay go ác liệt với một
lực lượng địch đông gấp ba lần,
dùng chiến xa T 54 làm nỗ lực chính. Xe
tăng địch nép theo những vách nhà bệnh
viện. Muốn diệt chúng phải tiếp cận
để có thể dùng những khẩu M 72 hiệu
quả, anh Tài cùng toán quân báo
đã dẫn đầu đơn vị, tìm
cách chui qua hàng rào bệnh viện, và
anh đã hy sinh bởi bị chính mìn của
ta phát nổ. Người anh cả của Tiểu
Đoàn, một sĩ quan xuất thân từ
khóa 16 VBĐL lừng danh, đã nằm xuống
dọn đường cho đơn vị mình cứu
nguy bệnh viện, nơi có đồng bào
và cả đồng đội của anh bị địch
quân dùng làm bàn đạp trong ý
đồ bất nhân của chúng. Đại
Đội Trinh Sát đang bảo vệ Bộ Chỉ
Huy Trung Đoàn được điều động
tiếp ứng, đột nhập đánh vào
sườn địch. Trinh Sát 44, một đại
đội với bao chiến công hiển hách từ
thời đại úy Trần Công Lâm, Phan
công Minh và sau này là Đoàn quang Mạnh,
đã đánh một trận thật tuyệt vời,
bắn cháy nhiều chiến xa địch, đuổi
đám tàn quân Cộng sản chạy
thoát thân ra khỏi bệnh viện và giữ
vững một lần nữa vòng đai thành phố.
Đại đội Trinh sát này dưới sự
chỉ huy tài ba và gan dạ của trung úy
Phan Công Minh, đã từng đánh một trận
thần tốc, chỉ bằng lựu đạn và cận
chiến, giải cứu cho một Tiểu Đoàn
BĐQ /BP bị vây trên đỉnh núi ChuPao.
Minh bị thương nhưng vẫn tiếp tục
điều quân, vừa phá vòng vây cứu
nguy cho đơn vị bạn, vừa diệt những
cái chốt cuối cùng, khai thông QL 14, để
lực lượng chiến xa của Lữ Đoàn
II KB lên tăng cường cho mặt trân và hộ
tống đoàn xe tiếp tế, lần đầu
đến Kontum kể từ khi cuộc chiến khởi
đầu. Tướng Trần văn Hai, nguyên Chỉ
huy trưởng BĐQ, lúc ấy là TLP/ QĐII
đã cùng đại tá TMT/QĐ Lê Khắc
Lý, đến QYV Pleiku ôm lấy người đại
đội trưởng trẻ tuổi tài ba gan dạ
Phan Công Minh ngay khi vừa mới được tản
thương về, và gắn lon đại úy
cùng anh dũng bội tinh với nhành dương
liểu cho Minh tại đây. Lúc ấy Minh vừa
tròn 25 tuổi.
- Đại úy Mạnh bây giờ ở
đâu, các anh có gặp anh ấy không ?
Câu hỏi của chị đã cắt mất
dòng hồi tưởng của tôi. Tôi lên
tiếng trả lời chị :
- Anh Mạnh đã chết trong tù cải tạo
từ năm 1978 chị ạ.
Im lặng một lúc, tôi lại nghe tiếng
chị khóc.
- Chị Hà em, bạn gái của anh Mạnh
lúc xưa cũng bị chết năm 75 khi VC vào
chiếm Kontum. Mộ chị nằm ở ngay phía
trước đây.
Vừa nói, chị vừa dẫn chúng
tôi đến đó. Nhìn bức ảnh
trên mộ bia tôi mang máng nhớ lại người
con gái tên Hà ở một quán cà
phê nhỏ nằm trong vườn cây sau nhà,
hơn ba mươi năm về truớc.
Nghĩa địa mới này nằm không xa
làng Trung Nghĩa. Tôi rủ chị cùng với
chúng tôi ghé lại lại thăm làng
và khu nhà thờ. Nơi mà ngày xưa
ông cha chánh xứ đã cùng chúng
tôi chiến đấu bảo vệ những giáo
dân ngoan đạo. Nghe nói ngài đã bị
tra tấn đến chết trong trại tù cải tạo.
Ra khỏi nghĩa trang, nhìn về phía bắc,
rừng núi ngày xưa, dù không tránh
được dấu vết của đạn bom,
nhưng vẫn còn xanh tốt, giờ sao lại xơ
xác điêu tàn. Tôi hỏi chị bạn
gái anh Bình, nghe tiếng chị thở dài :
- Tham nhũng bây giờ còn tàn
phá nhiều hơn cả chiến tranh ngày trước.
Tôi nhớ lại những vụ án ở
đây, có liên quan đến nhiều ông
lớn. Mới đây bà Thao Y Bình, Bí
Thư Tỉnh Đoàn Kontum đã ăn cướp
đến gần 140 tỷ đồng của dân
nghèo, và ông Trần văn Thiên, chủ tịch
huyện Dak Glei đã thông đồng bán bao
nhiêu gỗ quí.
Trên đường vào làng Trung Nghĩa,
tôi hồi tưởng tới trận chiến
trên tuyến Tây Bắc Kontum. Nơi đơn vị
tôi đã thắng một trận thật lẫy
lừng, làm tiêu hao cả sư đoàn 320
mà địch quân thường hãnh diện
là Sư Đoàn Thép, mở đầu cho bao
nhiêu chiến thắng sau đó để Kontum,
Tây Nguyên không lọt vào tay giặc.
Đúng vào sáng 30 tết năm 1972, khi
chuẩn bị buổi tiệc tất niên cho các
đơn vị tại hậu cứ Sông Mao sau một
năm đối mặt với chiến trường,
Trung Đoàn 44 chúng tôi nhận khẩu lệnh
của Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh QĐ II, di
chuyển khẩn cấp lên An Khê để thay thế
vị trí Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ
vừa rút quân về nước. Vừa đến
An Khê vào chiều mồng một tết, chúng
tôi đã cùng với Thiết Đoàn 3
KB tham chiến, giải toả áp lực địch
đang bao vây một số căn cứ phòng thủ
của các đơn vị thuộc Sư
Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn dọc theo
đèo An Khê nằm trên QL 19. Tình
hình tương đối yên tĩnh, các
căn cứ Đại Hàn được giải toả,
QL 19 đã khai thông, chúng tôi vừa đảm
trách giữ an ninh cho QL19 từ Pleiku đến
Bình Khê, vừa thiết lâp lại các
căn cứ pháo binh, phòng thủ. An Khê
là một địa danh làm người ta nhớ
tới hai đoạn đèo Mang Yang và An Khê
cùng những khúc quanh “tử thần”,
mà ngày xưa cả một tiểu đoàn
thiện chiến của đội quân viễn chinh
Pháp bị lọt vào ổ phục kích,
để gần như phải xóa sổ.
Ngày 24/4/72, Tân Cảnh thất thủ khi
BTLTiền Phương của SĐ22 bị tràn ngập.
Đại tá Lê Đức Đạt, vị
tư lệnh không được sự ủng hộ
của tay phù thủy John Paul Vann, cố vấn Mỹ
QĐII&QK2, đã từ chối lời mời
lên máy bay của người cố vấn SĐ
khi phòng tuyến bị chọc thủng bởi nhiều
chiến xa T 54 của địch. Ông ở lại chiến
đấu và vùi thây nơi chiến địa.
Căn cứ Tân Cảnh thất thủ, quận Dakto mất,
một BTL/Sư Đoàn bị rơi vào tay giặc
mà không hề có bất cứ sự yểm
trợ nào của lực lượng đồng minh,
cùng cái chết của vị tư lệnh
liêm sĩ, khí phách hào hùng thời ấy
đã là một trang chiến sử nói
lên cái bi phẫn của QLVNCH, báo trước
sự bỏ rơi của người bạn đồng
minh Mỹ, đã từng cam kết bảo vệ miền
Nam, tiền đồn của Thế Giới Tự Do.
Căn cứ địa đầu thất thủ,
kéo theo sự xáo trộn của một Sư
Đoàn bao nhiêu năm trấn thủ tam biên,
tạo thuận lợi để địch quân
tràn xuống uy hiếp Kontum.
Trung Đoàn 44 nhận lệnh di chuyển khẩn
cấp lên phi trường Pleiku để được
không vận lên Kontum. Lúc này thành phố
Kontum đang bất ổn, VC đã có mặt một
số nơi trong thành phố và pháo
kích thường xuyên vào phi trường, một
vài phi cơ bị trúng đạn phải nằm
ụ tại chỗ. Chúng tôi được lần
lượt không vận vào ban đêm bằng
C 130. Khi sắp vào không phận, máy bay tắt
hết đèn. Phi cơ không đáp mà chỉ
bay rà qua phi đạo để chúng tôi nhảy
xuống từ cửa phía sau.
Tiểu Đoàn 1 và 2/44 đựơc chở
thẳng tới phòng tuyến tây bắc, thay thế
cho một liên đoàn BĐQ vừa bị
tiêu hao quân số. Hai vị tiểu đoàn
trưởng lại là hai người bạn
cùng tốt ngiệp khóa 19 VBĐL thao lược,
can trường: Đại úy Đặng Trung Đức
và Nguyễn Xuân Phán. Ngay sau khi nhận khu vực
trách nhiệm, từ vị tiểu đoàn
trưởng đến binh sĩ cùng nhau lập
phòng tuyền chiến đấu, đặc biệt
là đào những hầm hố chống chiến
xa phía trước.
Vào khoảng 5 giờ sáng, ánh trăng
hạ tuần còn mờ ảo dưới màn
sương, các toán tiền đồn phát
hiện có nhiều chiến xa địch đang tiến
về hướng nam. Các đơn vị được
lệnh xuống giao thông hào, và dỡ bỏ
tất cả các lều poncho để tránh sự
phát hiện của địch. Trên hệ thống
vô tuyến, tất cả báo cáo đã sẵn
sàng. Địch quân tập trung đánh
vào phòng tuyến TĐ 2 của Đại
úy Nguyễn Xuân Phán. Chúng không ngờ
có một đơn vị thiện chiến mới
toanh vừa mới có mặt trên chiến trường
này, nên sau một loạt tiền pháo,
chúng xua những chiếc T 54 dàn hàng ngang, lực
lượng bộ binh ồ ạt theo sau. Mặc dù
đây là lần đầu tiên trực chiến
với xe tăng địch nhưng không hề nao
núng, mặc cho những xích sắt tha hồ
rú gào đe dọa, Đại úy Phán
bình tĩnh vừa gọi pháo binh tác xạ
ngăn chặn, phân tán và tiêu diệt bộ
binh địch, vừa ra lệnh cho đơn vị chỉ
khai hỏa khi những chiếc T 54 tới gần trước
mặt, trong tầm bắn chính xác hữu hiệu
của những khẩu M 72, loại vũ khí chống
tăng duy nhất mà đơn vị được
cấp, và một số B40, B41 của địch thu
dược từ chiến trường An Khê.
Đó là một quyết định táo bạo
và sáng suốt. Chiếc T 54 đầu tiên bị
bắn hạ do chính anh Tiểu Đoàn Phó,
đại úy Nguyễn văn Hướng. Ngay sau
đó, hàng loạt xe tăng địch bị bắn
cháy. Cả một tiểu đoàn ồ ạt
hô xung phong. Cộng quân bị đánh bất
ngờ, khiếp sợ, quay đầu chạy. Một chiếc
T 54 ủi thẳng vào hầm BCH/TĐ, bị ta bắt
sống cả xe lẫn địch, trong đó
có tên đại đội trưởng. Tiểu
Đoàn 1/44 của Đại úy Đức trở
thành lực lượng ngăn chặn hữu hiệu,
đánh bất ngờ bên hông địch,
đám tàn quân chỉ còn kịp
buông súng đầu hàng. Chiến thắng ấy
tất nhiên là công trạng của tất cả
mọi người, nhưng sẽ là thiếu
sót lớn lao, nếu không nhắc tới thiếu
tá Ngô văn Xuân, vị trung đoàn
phó tốt nghiệp khóa 17 VBĐL hiền
lành mà tài năng đảm lược.
Lúc nào tiếng nói thật bình tĩnh,
trấn an, dặn dò, đốc thúc của
Bá Hòa (danh hiệu của anh) cũng vang trên
hệ thống vô tuyến làm nức lòng chiến
sĩ. Ngay sáng hôm ấy, khi khói lửa
chưa tan, Thiếu Tướng Nguyễn văn Toàn vừa
nhận chức vụ Tư lệnh QĐII thay thế
Tướng Ngô Dzu, bay lên thị sát mặt trận.
Ông vẫn đội bê rê đen, đứng
trên xe M113 và đi bộ ngay trên phòng tuyến,
bắt tay từng anh em binh sĩ, vui mừng với chiến
tích đầu tiên của ông và gắn
lon thăng cấp cho vị trung đoàn trưởng.
Người ta đã nói nhiều về cá
nhân ông, nhưng ít ai biết được
ông là một dũng tướng ngoài chiến
trường.
Chiến công hiển hách này đã
mở đầu cho hằng loạt chiến thắng
khác của tất cả những đơn vị
tham chiến để bảo vệ Kontum và giữ vững
vùng địa đầu Tây Nguyên trong suốt
Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu lên
thăm Kontum, mừng chiến thắng. Khi trực thăng
ông đáp xuống căn cứ B 12, bản doanh của
BTL/SĐ23BB, đạn pháo của VC thi nhau rót xuống,
nhưng vị Tổng Tư lệnh đã xua tay từ
chối nhận chiếc áo giáp từ vị đại
tá Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn. Ít
nhất ông cũng đã chứng tỏ được
cái uy dũng của một người xuất
thân từ lính. Nhân dịp này Tổng Thống
đã gắn lon Tướng cho đại tá
Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư Đoàn.
Các anh Tiểu Đoàn Trưởng đều
được vinh thăng một cấp. Riêng vị
trung đoàn phó thầm lặng Ngô văn
Xuân đựơc thăng cấp bằng một quyết
định riêng sau đó. Anh đựơc
điều về làm Trưởng Phòng 3 Sư
Đoàn và sau này là một trong những
vị trung đoàn trưởng thao lược của
QLVNCH.
Trung Nghĩa bây giờ chẳng còn môt
chút gì dấu tích chiến tranh, nhưng
nhìn ở đâu tôi cũng thấy bóng
dáng anh em đồng đội cũ, những người
bạn trẻ tuổi can trường của chúng
tôi ngày trước. Đặng Trung Đức
đã hy sinh vào mùa hè 1973 khi vừa
được trực thăng vận xuống phía bắc
căn cứ Non Nước. Tên anh được
đặt cho bản doanh BTL/SĐ. Vợ con anh đã
sang Pháp, nhưng chị Đức đã mất
từ năm 1982, hai đứa con nhỏ phải nhờ
ông bà ngoại nuôi nấng. Bà mẹ
già góa bụa, mà Đức là con một,
cũng đau buồn mà đi theo Đức chưa
đầy một năm sau ngày Đúc hy sinh. Trần
Công Lâm, người bạn cùng khóa
thân thiết nhất của tôi - người sĩ
quan chưa hề biết mùi chiến bại, đi
hành quân mà chưa gặp địch là
không chịu quay về -, trước khi nắm Tiểu
Đoàn 3/44, đã từng là một đại
đội trưởng Trinh Sát lừng danh với bao
chiến công hiển hách, vang dội khắp
Quân Đoàn, cũng đã nằm xuống cuối
năm 1973 trên đỉnh Ngok Wang đèo heo
gió hú. Nguyễn xuân Phán sau những
năm tháng tù đày, hiện lưu lạc ở
một thị trấn nhỏ thuộc tiều bang Washington bên Mỹ
và vẫn hăng say trong các tổ chức
xã hội, cộng đồng. Thỉnh thoảng anh
xuống San Jose gặp gỡ bù khú với anh em,
vẫn cạn ly một trăm phần trăm, dễ
thương, vui vẻ như ngày nào. Anh bảo
chỉ có những lúc vui với anh em và say
mèm mới có thể quên được nỗi
đau. Phan Công Minh thì đang sống âm thầm
ở một thành phố biển ngoại ô New
York. Hơn 10 năm đi cày 2, 3 “job”, để
đủ lo cho các con ăn học, thời gian
còn lại chỉ đủ để uống rượu
tiêu sầu. Bây giờ tương đối rảnh
rang, truyền nghề đánh giặc lại cho thằng
con trai lớn vừa tình nguyện vào Thủy
Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, đang hành quân
trên chiến trường Irak. Riêng anh Ngô
văn Xuân, mòn mỏi, bệnh hoạn sau hơn
13 năm tù. Nhưng dường như những vết
thương chiến trường, tù ngục còn
trên thân xác không làm cho anh đau đớn
bằng vết thương trong lòng. Nỗi đau của
một người đã hiến đời cho binh
nghiệp mà giữa đường phải
đành vất cung bẻ kiếm. Bây giờ anh sống
lặng lẽ ở một nơi gần thành phố
San Jose, làm thơ Hoa Tâm, nghiên cứu về
Thiền và Phật học. Còn lại, những
đồng đội khác, hoặc đang sống
lê lết khốn cùng ở đâu đó
bên quê nhà với thương tích
trên người, hoặc lưu lạc muôn
phương, một số đã hy sinh, xác
thân nằm ở một nơi nào đó, giữa
núi rừng Kontum này, hay hoang lạnh trong các
nghĩa trang, đã dời đi hoặc bị san bằng,
nhưng có lẽ hồn thiêng vẫn còn phảng
phất đâu đây. Tôi đốt hết
bó nhang còn lại chia cho anh em. Chị bạn
gái của anh Bình cũng xin được chia phần.
Chúng tôi đứng nghiêm khấn vái bốn
phương trời. Cầu nguyện hồn thiêng của
những đồng đội cũ được sớm
siêu thoát trên chốn vĩnh hằng, và
xin tất cả tha lỗi cho chúng tôi, những
người còn sống nhưng đã không trả
được - dù chỉ một phần nhỏ
nào - món nợ máu xương cho họ.
Suốt đêm hôm ấy không ngủ
được, chúng tôi nằm kể lại bao
nhiêu chuyện vui buồn trên chiến trường
xưa, nhắc lại từng tên, từng khuôn mặt
bạn bè. Chúng tôi cũng tranh luận thật
nhiều về cuộc chiến đã qua và những
cái chết của đồng đội mà thấy
lòng nặng trĩu những đau buồn với bao
điều tức tưởi.
Sáng hôm sau, chị chủ quán, bạn
gái anh Bình, mời chúng tôi ăn
sáng rồi tiễn chúng tôi ra đầu cầu
Dakbla. Chị đứng yên lặng không nói một
lời gì. Nhìn những giọt nước mắt
chảy dài trên má chị, trong lòng
chúng tôi có lẽ ai nấy cũng đang giữ
riêng một nỗi ngậm ngùi. Nhìn dòng
sông Dakbla chảy ngược qua cầu, tôi
có cảm giác như lòng mình cũng
đang chảy ngược về những nơi nào
đó, những chiến trường xưa, mà
mãi mãi vẫn còn in bóng dáng
hào hùng của bao nhiêu bè bạn, anh em -
những người đồng đội cũ. Tất
cả đã từng có một thời sống rất
đáng sống.
PHẠM TÍN AN NINH
(DAI DOI HAI QUAN và Sưu Tầm
Liên Mạng chuyển)