Mai
(Phan)
1.
Không nhớ từ bao gìơ, tôi
đã tự đi kiếm mấy cuốn báo
xuân về đọc khi thấy nhà nhà trong
xóm vặt lá những cây mai. Cây mai
nhà bé Hương già nhất xóm, nghe
nói lão mai được ông nội bé
Hương trồng từ khi có cha của bé
Hương. Tôi tính nhẩm lão mai cũng cỡ
ngoài bốn mươi tuổi như cha bé
Hương và không bao giờ hiểu ! Tại sao
cây mai ngoài bốn mươi tuổi đã
được gọi bằng lão ? Chữ
“lão” nghe như trăm tuổi.
Những thắc mắc thuở thiếu thời
chóng quên trong tâm tư để nhường
chỗ cho thói quen xuân về có bé
Hương rực rỡ như mai vàng trong tà
áo mới theo bà nội đi chùa, đi
hái lộc đầu năm … chẳng mắc mớ
gì đến tôi vì người dưng
khác họ. Nhưng từ hôm bé Hương
có người đến chơi nhà nhân dịp
Tết. Họ mang đi đâu sự tung tăng
ngoài ngõ để xóm làng trống
huơ ! Tôi đọc báo xuân - không thấy
mai gì đẹp nữa. Mai tứ quý, mai
vàng, mai nghệ … năm nào cũng tràn
lan trên báo xuân và năm nào đọc
lại cũng thấy xuân. Nhưng năm nay mùa
xuân của tôi đi chơi xa, năm sau đi xa
hơn tôi tưởng. Xa thật xa là năm
… mùa xuân không trở lại.
Lão mai còn đó, ông nội bé
Hương vặt lá năm đó không
có bé Hương lăng xăng quét lá
cho ông. Người láng giềng-tôi, đi mua
báo xuân về cũng không buồn đọc.
Cảm nhận mùa xuân đồng nghĩa với
mất mát làm cho không có hứng
thú, đọc. Nhưng tôi mất gì chứ
? Từ cửa rào vô sân nhà tôi - vẫn
đi về những bước chân tôi. Thiếu
chăng, tiếng chào hỏi của láng giềng
mà mỗi bận đi về tôi ưa thích
được nghe. Tôi thích được
bé Hương đón đợi tôi về nhờ
vẽ hình cô gái mắt to bên góc
bài thơ mà bé Hương vừa chép,
bên bản nhạc trữ tình mà bé
Hương vừa nắn nót chưa ráo mực
trên trang giấy học trò. Tôi thích nghe
những lời trách khứ êm đềm, như:
“…chờ anh muốn chết ! Đi đâu
đi dzữ dzậy ? Vẽ giùm em hình này,
hình nọ…” Tôi làm giá ! Một
sợi tóc dài để se lại hình giọt
nước, nhúng vô bình mực tím
và in lên giấy thành những cánh hoa. Sau
đó thêm cành lá bằng mực xanh
lá cây … tràn trề hy vọng !
Hy vọng bao nhiêu thì thất vọng bấy
nhiêu. Mùa xuân không trở lại từ
lúc em đi. Tôi vẫn đọc báo xuân
mỗi độ mai vàng nhà ông Tư, nở.
Ông nội của bé Hương nay đã
già. Một mùa xuân không kịp vặt
lá mai vì Chúa, Phật đã rước
ông Tư đi từ mùa đông lạnh.
Cây lão mai và tôi sắp lão … bị
bỏ quên lại cái xóm nghèo heo hút
ven sông Thương. (Sông xóm tôi không
có tên nên tôi đặt cho giòng
sông tuổi nhỏ cái tên dễ thương,
dễ nhớ. Chưa kịp hỏi bé Hương
có đồng ý không thì đã
không còn cơ hội để hỏi).
Giòng sông, cây mai và những năm
tháng đi về dần trôi vào kỷ niệm,
tôi cũng rời xa xóm làng thân thiết
tình thân để lêu bêu trên
giòng đời vô định. Những chiều
gió chướng đông về vùng Duyên hải
mà tôi đi dạy học; những đêm bập
bùng ánh lửa nhà ai nấu bánh
tét, bánh chưng; những sáng sớm tinh
sương - mồng một Tết - ngoài ngõ vắng
tanh, xác pháo đêm qua còn ẩm hơi
sương hăng hắc mùi thuốc pháo trong
không gian thiêng liêng của Tết quê
nhà cũng dần dà mất hút trong tiềm
thức hải ngoại.
Giờ đây, những mùa xuân viễn
xứ, bâng khuâng dở trang giấy mới
còn thơm mùi mực của những cuốn
báo xuân, cũng vẫn là mai vàng rực
rỡ trên hình ảnh in màu rất đẹp.
Mai ấp lẫm trong chữ nghĩa của từng
bài viết về mai, về xuân. Mai trong tiềm
thức cũng ùa về đón xuân cùng
lòng người viễn xứ. Mai tứ quý, mai
vàng, mai nghệ ba bốn năm sáu cánh…
Tôi nhớ mai quê mùa ở xóm ven sông
hay nhớ bé Hương của tuổi rụt
rè ?! Bông mai vàng quê trớt đã cất
dấu bao mộng mơ, bao hình ảnh quê
nhà có ông Tư hiền hậu, có
đôi chân sáo tung tăng của bé
Hương. Nhưng sáo đã sang sông để
mai vàng rụng khắp ngõ thôn, để sống
lại trong tâm hồn người viễn xứ dạt
trôi những bông mai biết nói - mỗi độ
xuân về. Những bông mai luôn nhắc nhở
ân tình, người thân, xóm làng
… đã xa mù trong kiếp sống tha
hương. Em cũng là một bông mai không
cùng nỗi nhớ, tô điểm cho mùa
xuân ký ức trong tôi.
2.
Từ khi ra nước ngoài, tôi siêng
đọc báo hơn hồi còn trong nước
vì không mất tiền mua. Với tôi,
thiên đàng đang trên mặt đất.
Không có gì vui hơn đọc báo
không tốn tiền vì những ngày còn
đi học ở quê nhà, tôi ưa ra sạp
báo ở góc đường Nguyễn Biểu với
Nguyễn Trãi để đọc báo thuê.
Con nhỏ bán báo chua lè như cóc
ngâm. Má nó giao báo cho bán thì
nó phải giao tiền đúng, đủ. Tiền
đâu ăn quà vặt ? Nó cho tôi mượn
báo để đọc tại chỗ, giá cả
phải chăng, tùy theo túi tiền tên ăn
mày chữ. Quan trọng nhất là không
được gấp đôi cuốn báo vì
đọc xong phải trả lại sạp báo để
bán, tiền thuê tôi trả thì nó
ăn quà vặt. Cóc, ổi, cà na, cà chớn
… gì đó, của ông Tàu già
đẩy xe, ngâm trong nước thánh vàng
vàng làm con gái khoái.
Tôi còn nhớ. Con nhỏ bán báo, mặt
mày tối như đêm ba mươi, ủ dột
mà lại hay làm dáng nên mới mưa
gió bất hòa ở vùng trời quận 5 -
chợt nắng chợt mưa như tánh tình
nó vậy. Có hôm vui miệng tôi gọi
nó là Kiều-mưa-nắng. Nhiều khi có
ai đó ghé mua báo, tôi đóng vai
người điểm báo để lên giọng
thầy đời chút cho đỡ buồn thôi,
chứ nào dám tán tỉnh ai trong hoàn cảnh
tiền mua tờ báo còn không đủ, phải
đọc báo thuê. Nhưng nó phá
đám liền tức thời: “… anh đọc
báo mượn thì đọc đại đi,
để má em ra … em bị rầy”. Thấy
nó khờ nên khó ngờ cái khoản
mê trai - máu Hoạn Thư tiềm tàng trong huyết
quản. Tôi còn mặt mũi nào làm
người điểm báo cho ai nữa chứ ! Lớn
hơn là còn ai tin anh chàng điểm
báo mà đi coi báo cọp.
Hết làm ăn được với con nhỏ
bán báo - hai Tàu tám vì người
Tàu mà không biết nói tiếng Tàu
thì đâu đủ … Ba Tàu. Tôi đổi
qua sạp báo của ông già ở đường
Trần Hưng Đạo với đường Nguyễn
Đình Xu, (trước cửa Sở Công An
thành phố). Vậy mà khi nhớ về thời
đi học lại nhớ con nhỏ họ Cà
(Cà Chớn) trước ông già ưa kể
Tam Quốc Chí.
Có ai cùng ý nghĩ với tôi ?
Chúng ta đang sống trong Thiên đàng
báo chí. Không mất tiền mua mà vẫn
có để đọc biết bao chuyện trên
đời. Có ai cùng ý nghĩ với tôi
? Ở cuộc sống hải ngoại bây
gìơ, chúng ta không còn khó khăn tiền
bạc để mua báo như thời còn đi học
nhưng người viết báo thì khó
khăn hơn ở quê nhà, nhiều. Họ cũng
đi cầy như chúng ta, chẳng ai sống nổi
bằng nghề viết báo ở hải ngoại,
này. Báo cho không (free) thì tiền
đâu trả cho người viết ?! Từ những
ý nghĩ đó, tôi mới nhào vô tiếp
sức những người còn nặng lòng với
chữ nghĩa Việt đang mai một trên đường
lưu vong. Tôi thấy vui vui với bài báo
xuân năm ngoái. “Đón xuân này
tôi nhớ xuân xưa” tôi có
đưa vào bài viết loài mai dại để
nhắc nhớ bà con Việt kiều: “nơi
quê nhà còn một loài mai năm cánh
nhỏ, trắng. Mọc ở ven sông, bờ rạch…
mặt hoa úp xuống nước như soi bóng
thuyền quyên chờ người quân tử.
Hương hoa thoảng nhẹ trên đồng như
tình tự quê hương … Đó là
mai Chiếu thủy ở đồng bằng Nam bộ.”
Có đi xa mới nhớ nhiều về quê
cũ, có yêu mới thương mảnh đất
quê nhà, có già mới nhớ thuở
lơ ngơ. Tôi lại nhớ lão mai và
cô bạn nhỏ nữa rồi ! Thuở đó
tôi có nghe nhà ai trong xóm vẳng ra
đường lời hát: “Mai lỡ hai mình
xa nhau …” Nghe để mà nghe âm thanh
xóm làng thôi chứ nghĩ ngợi gì
đâu ? Phải như hồi đó tôi biết
nghĩ: “Mai lỡ hai mình xa nhau…” thì
giờ anh ngồi đây viết báo xuân buồn
lắm ! Cục diện chắc đã khác. Hồi
đó mà biết nghĩ thì thể nào
tôi chẳng theo … con bươm bướm trắng
về bên ấy rồi (NB)
3.
Vậy là xuân này thêm một
mùa xuân xa xôi, ý xuân trong bài
báo xuân cũng không ngờ đưa đến
độc giả một loài mai vô tình
có trong báo xuân, là: “Mai lỡ hai
mình xa nhau…” Chẳng ai nghĩ đến
điều đó trong tâm tư: “…em
bên mình anh. lặng yên dưới ban thờ.
ơn mẹ Mari…a” trong ngày Lễ thành
hôn của đôi ta. Nhưng cuộc sống (sự
sống) khởi thủy từ bất trắc của
địa cầu, từ vụ nổ big bang gì
đó. Truy nguyên thì chúng ta khởi đầu
từ bất trắc nên bất trắc xảy ra bất
cứ lúc nào - ngoài tiên đoán, dự
liệu của con người. (Núi lửa hoạt
động lại; động đất; sóng thần
trở cơn giận dữ, bão tố… người
chiến binh cảm tử của Bin, nổ bom lúc
nào ? Ở đâu ? Hoàn toàn không hẹn
trước.) Tiền thân của gió mát
trăng thanh là long trời lở đất của
thiên nhiên; tiền thân của hạnh phúc
là khổ đau, là bất trắc không ngờ.
Trong cái “tĩnh” chứa cái “động”.
Dĩ nhiên là trong “động” cũng
có “tĩnh” nhưng không phải ai cũng
nhận ra nơi bình yên nhất của người
này thường nằm trong trái tim nóng bỏng
của người kia. Tay trong tay
để ca ngợi tình yêu, hạnh phúc
nhưng tiếng hát bay trên hàng phố
bâng khuâng … cũng chính là nước
mắt song song với nụ cười. Hai vợ chồng
đang tay trong tay đi xem nhà mới, xe mới …
đâu ai nghĩ tới: “mai lỡ hai mình xa
nhau…”
Tôi xin kể chuyện mới gặp anh bạn cũ
sau năm tháng xa để thấy con đường
đi đến nơi bình yên của người
này trong trái tim nóng bỏng của người
kia đầy những chông gai.
“ … sáu bảy năm trước, chị
nhà quyết chí làm giàu bằng nghề
nail nên chị bất chấp lời cản ngăn của
chồng con và gia đình hai bên, chị
đơn thân độc mã (xe hơi); thân
gái dặm trường lên miền bắc Mỹ
làm giàu. Anh bạn tôi ngồi buồn kể
lể với bạn bè. Anh em bạn bè, xúi
anh ta: Vợ đâu chồng đó. Bỏ job
đi ông ơi ! Lên trển với bả cho
có vợ có chồng… Anh nghe lời nói
phải của những người ngoài cuộc
thường sáng mắt mà lên đường.
Rồi cuộc sống gia đình anh ổn định
theo thời gian trên miền bắc Mỹ. Như
đôi lần điện thoại thăm nhau thì
vợ chồng anh làm ăn khá lắm. Sao nay gặp
lại anh ở Dallas
- một mình ?! Anh trả lời gọn bâng:
‘Ly dị rồi mày ơi ! Chuyện chẳng ra
gì, chẳng qua là giọt nước làm
tràn cái ly vốn đã đầy từ
lâu’. Người ta sống với nhau lâu rồi
cũng chán, thì phải ? Tôi hỏi rõ
nguyên nhân, càng chưng hửng với lý
do ly dị chưa từng thấy: Họ mua căn
nhà ba trăm ngàn, còn nợ nhà bank một
trăm ngàn sau mấy năm đầu tắt mặt
tối trả nợ. Hiện thời trong bank có
hơn trăm ngàn, anh chồng quyết định trả
dứt tiền nhà cho nhà bank, bớt làm việc
để có thời gian ở trong căn nhà cao cửa
rộng chứ mua chi nhà lớn, rồi suốt
ngày ở ngoài tiệm từ sáng tới tối
mù. Chị vợ không nghe. Xách tiền đi
mua chiếc Mercedes-Benz gần cả trăm ngàn, đậu
cửa tiệm nail, chơi, cho ra mặt bà chủ tiệm,
chứ dzũa sáng chưa đủ tranh thủ dzũa
chiều … tới tối mù tối mịt
thì thời giờ đâu mà chạy xe
brandname ! Họ đưa nhau ra Tòa ly dị bằng xe
Mercedes. Cái xe sang trọng vậy mà đi có
một lần, rồi từ nay mãi mãi không
thấy nhau …”
Ai ngờ không ? Cả anh / chị có ai nghĩ
đến “mai lỡ hai mình xa nhau…” để
một người về đỉnh cao; một người
về vực sâu … của đoạn cuối cuộc
đời lang bạt đất khách, này.
Rồi mùa xuân nào, châu về hợp
phố ! Khi đời chỉ còn những mảnh vỡ
của tâm tư rã rời; những băn
khoăn với bóng chiều tà của của
tình yêu, cuộc sống. Người ta chỉ
đi chung một đoạn đường thôi sao ?
Người đồng hành trong những gian truân
vui buồn của đường đời không
cùng tới đích cũng bất trắc như
thiên nhiên, lòng người… Càng
văn minh bao nhiêu, những giá trị tinh thần
mà cha ông gìn giữ càng mai một bấy
nhiêu. Nhất là cuộc sống nơi này.
Văn minh đòi hỏi một tâm trí văn
minh để xử sự văn minh nghĩa là
có lương tri, đạo đức. Không phải
người bản xứ không có tình cảm
trong mọi quan hệ nhất là quan hệ vợ chồng.
Chỉ tại người mình bắt chước thiếu
suy xét nên mới có những đổ vỡ
lãng nhách; lãng xẹt như thế ! Nếu
ai cũng bình tâm để suy xét, ai cũng
cân nhắc kỹ càng về chuyện hôn
nhân thì cứu được rất nhiều trẻ
nhỏ bơ vơ, thiếu cha hay mẹ.
Xuân rồi sang, bởi có đến
thì có đi để mùa sau lại đến
vì xuân nằm trong tuần hoàn vũ trụ.
Người ta thì khác, đến với nhau bằng
yêu thương trong khoảnh khắc cuộc đời
ngắn ngủi giữa thiên nhiên vạn tuế.
Mong gì gặp lại kiếp sau, sao không giữ
cho nhau chút gì đã trao đi và nhận
lại để không còn ý nghĩa một cụm
từ làm khổ mình; khổ người và
những hệ lụy cho đời sau, là cụm từ:
“mai lỡ hai mình xa nhau …” Như tôi vậy
đó. Nếu biết sớm:“mai lỡ hai
mình xa nhau…” anh ngồi viết báo
xuân buồn lắm! Thì không có gì
để viết cho những mùa xuân tha
hương.
Phan
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)