Sài Gòn và những
âm vang tháng 7
(T.Vấn)
1.
Tháng 7. Ở quê nhà đang chuẩn bị
vào mùa mưa. Và cái
nóng vào thời điểm này thì thật
khó chịu. Không có mặt tại
Sài Gòn mà tôi vẫn cảm nhận
được điều đó. Gần
hết đời người sống trên mảnh
đất ấy, làm sao tôi có thể
không biết.
Tháng 7 năm ngoái, cả
Sài Gòn sôi động vì những cuộc
xuống đường của một tầng lớp
dân chúng bị áp bức, bị cướp
đất cướp nhà. Tháng 7 năm ngoái, mùa
mưa đến sớm hơn thường lệ, giữa
lúc không ai mong đợi. Mặc dù trời
vẫn nóng như thiêu như đốt. Mặc dù mưa vẫn là điều tốt
đẹp nhất trong những điều tốt đẹp
trên mảnh đất càng ngày càng hiếm
hoi những điều tốt đẹp. Chỉ bởi
vì mưa xuống sẽ làm tội nghiệp
thêm những người dân quê vốn
đã tội nghiệp đang gào khản cổ
trên đường phố Sài Gòn: "hãy
trả lại cho chúng tôi công lý".
Tháng 7 năm ngoái, người Sài Gòn cũng
chỉ biết đứng bên hiên những
tòa nhà cao tầng lộng lẫy mọc lên
như nấm (sau mưa), vừa để tránh
mưa vừa ngậm ngùi nhìn những người
dân quê co ro dưới những tấm biểu ngữ
xanh đỏ viết nguệch ngoạc đôi lời
cầu khẩn gởi chính quyền đương
nhiệm. Tháng 7 năm ngoái, giữa sự im lặng
khó hiểu của 600 tờ báo phát hành
ở Việt Nam, người ta đã đặt
câu hỏi với những người đã từng
làm mưa làm gió làng báo Sài
Gòn thời kỳ Việt Nam Cộng Hòa trước
75, nay vẫn còn sống và vẫn còn tiếp
tục cầm bút ở Sài Gòn, những
người đã từng làm chủ đường
phố Sài Gòn bằng những cuộc lên
đường xuống đường nay hiện
đang giữ những chức vụ cao cấp trong guồng
máy nhà nước thành phố, hay chí
ít cũng là những chức vụ quan trọng
trong lãnh vực truyền thông báo chí. Tháng 7 năm ngoái, ngoài tiếng
gào khản cổ của những người dân
quê ít học, không chữ nghĩa, người
ta không nghe được gì khác.
Có chăng là tiếng rào rào quen thuộc
của những cơn mưa nhiệt đới đổ
về thành phố. Tháng 7 năm ngoái, qua
đôi mắt và đôi tai của một
người bạn về thăm quê nhà, từ
quê người tôi đã hướng trang viết
nhỏ này đến những thân phận buồn
thảm hơn cả chiều dài lịch sử một
đất nước vốn chỉ quen thuộc với
chiến tranh, với nghèo đói, với áp
bức, với đọa đầy. Những
ngày ấy, tôi đã rất nhiều lần "...
ngồi câm lặng hàng giờ liền trước
màn hình trắng lóa của chiếc máy
điện tóan. Tôi nghi ngờ
khả năng của chữ nghĩa. Cuộc sống
ngoài kia thiên hình vạn trạng,
giữa những điều tốt đẹp vẫn
không thiếu bao sự xấu xa, giữa muôn tiếng
cuời vang hạnh phúc vẫn không thể
không nghe những tiếng tức tưởi xé
lòng. Vậy chữ nghĩa của tôi có
chuyên chở được những thứ ấy không ? nếu
không, chắc chúng chẳng có lý do để
tồn tại. Và, nếu chúng không có
lý do để tồn tại, thì hẳn là
tôi cũng không có lý do để tồn
tại. Người nông dân đổ
mồ hôi trên mảnh ruộng, mong đến
ngày hái đem về nhà những bông
lúa trĩu hạt. Thực phẩm cho đời
là lý do tồn tại của người
nông dân. Còn những người trăn trở
với chữ nghĩa hằng đêm, không đổ
mồ hôi nhưng trái tim rỉ từng giọt
máu, liệu có tìm được lý do
để biện minh cho sự tồn tại của
chính mình ?..." (Ðứng
trước sự đau khổ, người ta có thể
làm gì ? T.Vấn,
tháng 7-2007).
Và cuối cùng, năm ngoái, chưa hết
tháng 7 thì bóng dáng những đoàn
nông dân biểu tình trên đường phố
Sài Gòn đã lẳng lặng biến mất,
một cách hết sức êm thấm. Một buổi
sáng, người Sài Gòn thức dậy,
không còn thấy gì ngoài vài
đôi dép cũ mòn vẹt còn nằm vất
vưởng đây đó trên hè phố. Những người một thời ồn
ào với đường phố Sài Gòn
trước 1975 vẫn im lặng. Và
những ngày còn lại của tháng 7 năm
ngoái qua đi êm ái.
2.
Tháng 7 năm nay, những người dân
quê oan ức, dù vẫn chưa đòi lại
được công lý (liệu
có công lý hay không để đòi
?), không còn cơ hội dậy cho
người Sài Gòn bài học về tranh
đấu năm xưa nữa. Mà
ngược lại, ở Sài Gòn, chính những
người một thời làm mưa làm gió
các đường phố thời trước 75,
đang lên tiếng ồn ào về những
ngày tháng ấy. Có người vẫn
cứ huyênh hoang về những cuộc xuống
đường "hoành tráng", về vai
trò là "trái tim những phong trào hoạt
động cách mạng của thanh niên sinh
viên học sinh đô thị miền Nam", về
những cuộc tập họp "hát cho đồng
bào tôi nghe" v. v. . và vẫn
tiếp tục hãnh diện, coi đó như
là những đóng góp to lớn cho một
nước Việt nam "không còn chiến tranh,
không còn áp bức, không còn bất
công ...", một nước Việt Nam "đã
sạch bóng quân xâm lược, đã an
hưởng tự do, dân chủ, độc lập,
phú cường" (*). Có người, hiểu
biết hơn và trung thực hơn, đã
nhìn thấy bản chất xấu xa của một chế
độ mà trước đây họ đã
hết lòng ủng hộ, nhưng vẫn không chịu
nhìn nhận mình "lầm đường",
khi nói về những hoạt động nhằm
phá hoại chế độ VNCH, hay nói cách
khác, tiếp tay cho cộng sản miền Bắc. Họ
lý luận rằng "lầm đường là
chọn sai ngay từ đầu". Họ, người
trí thức thân Cộng miền Nam, tin rằng
mình không lầm đường khi đi theo Việt cộng "đánh Mỹ,
chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất
nước". Ngày 30 tháng 4 năm
1975, chiến tranh chấm dứt, đất nước thống
nhất, người Mỹ cuối cùng đã ra
đi. Mục tiêu của họ
đã đạt được. Sau
đó, những người cộng sản
đã không giữ đúng lời hứa hẹn
về việc xây dựng một "xã hội
không còn người bóc lột người,
xóa bỏ giai cấp, xóa bỏ áp bức bất
công". Điều ấy chứng
tỏ rằng chính "lịch sử" mới
là người chịu trách nhiệm (**).
Còn họ, người thanh niên
lòng tràn đầy nhiệt huyết vì
dân, vì nước ngày ấy, xét cho
cùng, có lỗi lầm chăng là chỉ
vì cả tin mà thôi.
Nhưng "lịch sử" là ai ? Là những bóng ma chưa hề
thực sự hiện hữu ? Là
những bung xung để khi cần thiết, được
đem ra làm vật tế thần ?
Là cái thùng rác vĩ đại phục
vụ cho sự tiện nghi của kẻ chiến thắng
sau một cuộc binh đao ? Là
cái máy chém bén ngọt băm nát sự
nghiệp của kẻ chiến bại ?
3.
Công bằng mà nói, dòng cuốn của
chuỗi biến cố những ngày tháng oan nghiệt
ấy đã không chừa một ai trên con
đường nó càn quét. Càng thao thức
với vận mệnh đất nước, càng trăn trở với trách nhiệm của
cá nhân "quốc gia hưng vong thất phu hữu
trách", càng dễ bị chìm nghỉm giữa
dòng cuốn ấy. Tự bản chất,
chiến tranh là
hủy diệt, bất kể đó là
chiến tranh vệ quốc, chiến tranh chống cộng,
chiến tranh cách mạng hay chiến tranh giải
phóng. Chứng kiến sự chết chóc xảy
ra hàng ngày, hàng giờ, của bao người
dân vô tội, của bao lớp người trai trẻ
chưa kịp sống cuộc sống của mình
đã phải bước chân vào trận
địa, với một đi không biết có
ngày trở lại, cho nên ước vọng
hòa bình, chấm dứt chiến tranh là ước
vọng của tất cả mọi người. Nhưng chấm dứt chiến tranh như thế
nào, đó là điều người
ta không dễ dàng đồng thuận. Giữa
những hỏa mù pha trộn
chân lý và tuyên truyền, thật không
dễ dàng gì cho những lựa chọn. Trong lớp
khói súng dầy đặc, nhiều khi người
ta không có sự lựa chọn. Mà
là cứ nhắm mắt đưa chân, mặc cho
số phận đẩy đưa, trong nhờ đục
chịu. Tất nhiên, không phải
ai cũng nhắm mắt đưa chân. Có rất
nhiều người tự cho là mình đủ bản
lãnh để cương quyết lựa chọn một
con đường. Lựa chọn ấy đòi hỏi
hiểu biết, kinh nghiệm (tai nghe mắt
thấy hay do người đi trước truyền lại),
và tất nhiên, lòng can đảm. Chẳng
may, không ít người đã lầm
đường.
Ngày nay, nhìn lại, mấy ai đủ can
đảm phủ nhận quá khứ, nếu quá
khứ, xét một cách công bằng và
trung thực, chỉ là tiếp tay cho một chế
độ hại dân hại nước, dù người
tiếp tay đã làm điều đó với
trái tim trong sáng của một công dân
yêu nước, thương nòịi.
Mặt khác, cũng không dễ
dàng khi lên tiếng phê phán, nếu
không tự đặt mình vào vị trí
lịch sử của những ngày tháng đau
thương ấy.
Nhân câu chuyện quá khứ,
không thể không nhắc đến câu
nói của vị thủ tướng chính quyền
đương nhiệm trong nước. Cuối tháng 6 năm 2008, trong chuyến
công du Mỹ quốc, ông đã kêu gọi
người Việt hải ngoại hãy "xóa bỏ
mặc cảm quá khứ" để hướng về
quê nhà đang cần sự tiếp tay trong
công cuộc xây dựng đất nước. Thế
nào là "mặc cảm quá khứ" ? Quá khứ ấy xấu xa
nên hãy xóa bỏ mặc cảm tội lỗi ? Quá khứ ấy đúng
đắn, nay tuy sự thành bại đã ở
hai vị trí đảo ngược, nhưng cũng
nên xóa bỏ mặc cảm tự tôn của
người đã chọn đúng đường
đi của lịch sử ? (Tôi
không nghĩ ông thủ tướng hàm
cái ý này khi phát biểu hết sức
mơ hồ như thế), hay chỉ là điều
mà ai cũng biết đại khái rằng chiến
tranh đã chấm dứt rồi, hãy xóa bỏ
hết những hận thù lưu cửu từ trước
đến nay, tất cả người Việt Nam
cùng bắt tay nhau xây dựng đất nước.
Theo tôi, vấn đề không phải là chỉ
xóa bỏ quá khứ, hay quên hết hận
thù. Những điều ấy, tuy
khó, nhưng vẫn có thể làm được.
30 năm đã đủ dài để
cho người ta làm việc đó. Cốt lõi của sự khác biệt
hiện nay giữa cộng đồng người Việt
hải ngoại và chính quyền trong nước
là đường
lối xây dựng đất nước, là các quyền tự do
cơ bản của công dân cần được người
cầm quyền triệt để tôn trọng,
và một cơ
chế dân chủ để bảo đảm cho những quyền
tự do cơ bản ấy.
Giải quyết được những khác biệt ấy,
thì tất nhiên chính quyền trong nước
sẽ nhận được sự hợp tác của
người Việt hải ngoại, vì ước vọng
của họ là được sống trong một
đất nước dân chủ, tự do và những
cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi
người cùng phát triển.
Do đó, cách nói "xóa bỏ mặc
cảm quá khứ" là một thủ đoạn
giả mù sa mưa, cố tình gán cho sự
phản kháng của cộng đồng người
Việt hải ngoại một động cơ không
hoàn toàn đúng với sự thật, nhằm
mục đích gây chia rẽ hai khối người
Việt, trong nước và ngoài nước.
4.
Tôi vẫn cho rằng, sẽ
không công bằng khi đòi hỏi những
người trí thức (xưa và nay) ở trong
nước có một thái độ dứt
khoát và mạnh mẽ trước hiện trạng
xấu xa của guồng máy chính quyền
đương nhiệm.
Người ở ngoài đất nước, có
đầy đủ tự do để nói lên những
gì mình nghĩ mà không sợ bất cứ
một sự bắt bớ, trả thù nào. Do
đó, cũng sẽ là không công bằng
khi người ta đòi hỏi những người
trước đây sinh sống ở miền Nam, sử
dụng một số quyền tự do mà lúc ấy
nền dân chủ non trẻ của các chế
độ cộng hòa miền Nam cho phép để
gián tiếp hay trực tiếp góp phần
làm sụp đổ nền dân chủ ấy, nay
phải chính thức, công khai nhận trách nhiệm
về sự "lầm đường" của
mình. Ngoài những xung đột nội tâm của
một con người phải "nhẫn tâm" chối
bỏ quá khứ của mình, còn có bao
đe dọa ở bên ngoài, sẵn sàng nghiền
nát kẻ trung thực. Nhưng thái độ vẫn
còn nhìn quá khứ "lầm đường"
của mình như là một thành tựu
cá nhân góp phần "đem lại độc
lập tự do" cho đất nước thì
khó có thể biện minh được.
Như một tình cờ của lịch sử,
đúng một năm sau ngày những người
dân quê miền Tây làm sôi động
đường phố Sài Gòn sau hơn 30 năm
im lặng vì bàn tay sắt cai trị của giới
cầm quyền Cộng sản, thì những người
nhờ đường phố Sài Gòn năm
xưa mà "thành danh" nay lại tái xuất
hiện. Giả sử như họ quả thực là
những người yêu nước thương
dân, thì, tháng 7 năm ngoái, họ ở
đâu khi những người dân quê ít học,
không chữ nghĩa thay họ làm sống lại
đường phố Sài Gòn ?
T. Vấn
(Tháng7–2008)
* Cuối tháng 6 năm 2008, nhà xuất bản
Lao Động ở trong nước cho xuất bản quyển
"Huỳnh Tấn Mẫm - Một đời sôi nổi"
của Diệu Ân, ghi lại một đoạn đời
trước 75 ở Sài Gòn của ông "cựu
lãnh tụ sinh viên tranh đấu" Huỳnh Tấm
Mẫm, một cái tên không xa lạ với
người Sài Gòn cũ.
** Nhà văn Đào Hiếu, một cựu
sinh viên tranh đấu trước 1975, hồi
tháng 2-2008, đã cho phổ biến tác phẩm
tự truyện "Lạc đường" dưới
dạng điện tử ở hải ngoại (diễn
đàn Talawas, vì ông không thể cho xuất
bản được ở trong nước). Về việc công bố tác phẩm tự
truyện gây tiếng vang đáng kể ở hải
ngoại, ông Đào Hiếu cho biết "Tôi
viết Lạc Đường vì tôi cảm thấy
có bổn phận phải làm điều
đó, tôi thấy có trách nhiệm phải
lưu lại một mảng lịch sử mà tôi
đã tham dự. Tôi thấy không
có gì phải hối tiếc vì tôi
đã tham gia vào cuộc chiến tranh
đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất
đất nước. Tôi chỉ thất vọng về
những gì đã diễn ra sau hòa bình
thôi, vì chính nhà cầm quyền
đã đưa Việt Nam chìm đắm trong
tham nhũng, bất công và không có tự
do tư tưởng. Ví dụ như cuốn sách
này, viết tâm huyết, có tình yêu
nước, yêu nhân dân lao động…
nhưng không được in tại VN thì
rõ ràng không có tự do tư tưởng,
nên tôi mong muốn có được sự thoải
mái hơn trong vấn đề công bố
tác phẩm ở VN ..." (Minh Thùy - Trò
chuyện với nhà văn Đào Hiếu - Tạp
chí điện tử Damau.org 25-06-2008).
(Bai Chuyen)