Hãy đem cho ta những
kẻ khốn cùng *
(T.Vấn)
●Hãy đem cho ta những kẻ
khốn cùng,
những đám nhân quần bị
đày đọa
hằng khát vọng được
hít thở không khí của tự do...
(Emma Lazarus – The New Colossus)
Hợp Chủng Quốc Hoa kỳ,
như chính tên gọi, là nơi có nhiều
sắc dân khác nhau trên thế giới đến
định cư, lập nghiệp. Họ có mặt ở đây
vì nhiều lý do : tị nạn
chính trị, mong tìm những cơ hội để
thăng tiến trong đời sống, tạo điều
kiện cho con cái được hưởng những
thành quả tốt đẹp nhất về giáo
dục v. . v… Do đó, hình
ảnh những
"người ngoại quốc" đi lại
trên đường phố Mỹ không có
gì đáng để chú ý.
Nhưng, người Mỹ bản xứ nghĩ sao
về những sắc dân "xa lạ" ấy ? Câu chuyện
được kể dưới đây cho thấy một
khía cạnh khác mà ít người, cả
dân bản xứ lẫn người di dân, nghĩ
tới.
Một phụ nữ người Mỹ,
như thường lệ mỗi năm vào dịp
đầu hè, bầy những thứ đồ đạc
cũ ít (hoặc không) xài tới ra trước
nhà bán Garage Sale vào 3 ngày cuối tuần. Theo như lời bà
cho biết, mục đích là để cho vui nhiều
hơn là kiếm mớ bạc cắc vụn vặt.
Vào cuối ngày thứ hai, có cặp
vợ chồng người châu Á ghé lại.
Họ chăm chú lục lọi cái thùng giấy
để ngay lối vào bãi đậu xe, trong đó đựng nhiều thứ
lặt vặt của đứa con gái 13 tuổi của
bà. Sau khi xem xét một lúc, họ
cầm một vài món ra khỏi thùng, xăm
xoi thêm một lúc nữa, rồi bỏ lại tất
cả vào thùng. Riêng người
đàn bà dường như còn giấu trong
tay một món đồ nhỏ.
Bà chủ nhà mắt không rời khỏi cặp
vợ chồng châu Á, trong bụng nghĩ thầm
không biết họ có bỏ đi mà
không trả tiền cho món đồ người
đàn bà còn giấu trong tay
hay không. Rồi người đàn ông lại
cúi xuống, thò tay vào trong thùng, lấy
ra một xấp bài loại dùng để
chơi trò ảo thuật, đếm đi đếm
lại, vừa đếm vừa lật qua lật lại
xem xét những lá bài rất kỹ. Sau
đó, họ tiến về phía cái bàn
bà chủ nhà ngồi thu tiền,
nói một cách nhút nhát rằng họ
là người Việt Nam. Bà chủ
nhà không ngạc nhiên lắm về chi tiết
này, nhưng tạm thời bà cũng cố che giấu
sự bực bội trong lòng bằng cách tự
nhủ rằng có thể đó là văn
hóa của người Việt Nam mà mình chưa
được hiểu rõ lắm. Để
xã giao, bà cũng cố mỉm cười
và gật đầu trước sự giải
thích của người đàn ông châu
Á nhỏ thó.
Hai người khách còn
ngó qua mấy bàn bầy những thứ gia dụng
khác, cầm lên xem rồi nhẹ nhàng bỏ
xuống. Cuối
cùng, người đàn bà đưa cho
người đàn ông vật bà cầm
trên tay. Đó
là cái hộp nhỏ để đựng những
lá bài. Người đàn
ông cầm cái hộp cùng với một xấp
bài lại chỗ bà chủ nhà, rụt
rè hỏi giá cả của hai thứ ấy.
Bà Mỹ cố gắng nói chậm rãi
và ngắn gọn để giải thích cho hai
người khách Việt Nam biết rằng
đó chỉ là một phần nhỏ trong
toàn bộ những thứ gộp chung
với nhau trong thùng, và họ có thể mua cả
thùng đồ với giá 3 đô la. Người
đàn ông trông có vẻ tiu
nghỉu. Bà chủ nhà không rõ là
ông ta không hiểu điều bà nói hay
không muốn hiểu. Bà sắp sửa không kềm
được sự bực bội của mình
thì bỗng nhiên người đàn ông
châu Á ngẩng mặt lên và nói : “ I like this !”. Vừa
nói, ông ta vừa chỉ vào mặt sau của
lá bài, có in hàng chữ "God bless America" trên cái
nền là lá cờ Mỹ sắc nét.
Ngay lập tức, bà chủ nhà người
Mỹ, theo lời bà, "cảm thấy xấu hổ
vì đã bực bội, nghĩ xấu về cặp
vợ chồng người Việt Nam", nhất
là khi người chồng, bằng thứ tiếng
Anh với cách phát âm lơ lớ, khó
nghe, hãnh diện cho bà chủ nhà biết rằng "gia
đình tôi đến Mỹ được 3
năm, 20 ngày và 9 tiếng đồng hồ".
Bà chủ nhà ngồi chết lặng. Bà có cảm
tưởng mình có thể khóc được.
Đã lâu lắm rồi bà
không được nghe nói, hay đọc trên
sách báo, rằng có người đã
hãnh diện vì họ được sống
trên nước Mỹ. Bà nhìn lại
chính bà. Lúc nào cũng bất
mãn, ta thán nào là khủng hoảng kinh tế,
khan hiếm thực phẩm, giá xăng cứ tăng
lên vùn vụt hàng ngày, các chính
trị gia thì chỉ biết cãi cọ lẫn
nhau. Tất cả những thứ khó chịu
hàng ngày ấy cộng thêm với bao lo toan
khác về công việc, về gia đình khiến
trái tim yêu nước của
bà không còn chỗ cho lòng tự hào
mình là người Mỹ, một người Mỹ
chính gốc.
Qua đôi mắt tha thiết của người
đàn ông Việt Nam xa lạ đang đứng
trước mặt, bà người Mỹ chợt nhớ
ra rằng thật may mắn cho mình được
là công dân một nước mà những
người dân ở những nước khác khao
khát được đến sinh sống nơi
đây, vì ở xứ sở của họ,
không có thứ tự do mà bà đang mặc
nhiên thụ hưởng, không có những
cơ hội mà bà cho là bình thường.
Dĩ nhiên, bà người Mỹ vui
vẻ không lấy tiền những thứ mà cặp
vợ chồng người Việt Nam muốn có. Và họ đã trở thành bạn.
Vì nhà cặp vợ chồng người
Việt chỉ cách nhà bà người Mỷ
khoảng nửa dặm đường. Họ muốn
tìm những người Mỹ nhân ái, sẵn
sàng giúp họ có cơ hội học
và thực tập tiếng Anh. Vì nếu không
thông thạo Anh ngữ, sẽ rất khó cho họ
kiếm được công việc làm với thu nhập vừa đủ để họ
nuôi dưỡng gia đình có hai con nhỏ.
Bà người Mỹ, đã cám ơn
Thượng đế, vì bà tin rằng
chính ngài đã hướng dẫn những
con người nhỏ bé tội nghiệp ấy đến
trước cửa nhà bà và xui khiến,
để cho bà và họ làm bạn với
nhau. Bà nhớ đến hàng chữ được
ghi dưới chân bức tượng Nữ thần Tự
Do, biểu tượng của nước Mỹ, ở bến
cảng New York : "Hãy đem đến cho ta những
kẻ khốn cùng .." . Bà cũng nhớ rằng,
có một thời lâu lắm, từ lúc
bà còn ngồi ghế nhà trường trung học,
những người đồng hương của
bà không phải ai cũng vui vẻ khi nhìn thấy
những con người châu Á khốn cùng
đến từ một xứ sở có tên gọi
là Việt Nam, một xứ sở đau khổ
vì chiến tranh hàng mấy chục năm trời,
sau khi chiến tranh chấm dứt họ còn bị
chính những người đồng bào của
mình áp bức, đè nén đến
độ họ phải liều mình vượt biển
bỏ nước ra đi để mong tìm cái sống
trong cái chết. Phần lớn họ đã
được chính quyền nước Mỹ mở
rộng vòng tay chào
đón, cho họ cơ hội được hưởng tự do (vì đó là thứ họ
nghĩ đến trước nhất khi đặt
chân xuống chiếc thuyền mong manh băng mình
vào biển cả), cho họ cơ hội để họ
tự đứng lên trên đôi chân của
riêng mình.
Nay, những người khốn
cùng ấy đã giúp bà nhìn lại
đất nước mình. Nhìn người đàn
ông mỉm cười sung sướng, cúi đầu
xuống tỏ lòng tri ân và sự cố gắng
khó nhọc thốt ra một câu tiếng Anh ngắn
ngủi để mong bà giúp ông ta trau dồi
ngôn ngữ, với mục đích chỉ để
nắm bắt bất cứ cơ hội tốt đẹp
nào trên mảnh đất của những cơ hội
này, bà lại không thể không nghĩ
đến sự may mắn của chính mình, của
nhiều người đồng hương khác,
đã mặc nhiên hưởng thụ bao nhiêu
điều may mắn mà không hề có một
chút lòng biết ơn nào.
Người đàn bà Mỹ
hào hiệp ấy đã nhận ra đất
nước mình sau khi đối diện với một
người tị nạn Việt Nam.
Thời gian trôi qua, họ trở
thành những người bạn. Người bạn Việt Nam của
bà, bằng ý chí của kẻ khốn
cùng quyết vượt qua bao gian nan thử
thách, bằng lòng tự trọng của một
dân tộc tuy nghèo nhưng không bao giờ ỷ
lại vào sự giúp đỡ của người
khác, đã tạo được một cuộc
sống ổn định trên mảnh đất mới,
nay ông ta cũng đã nhận đó là
quê hương thứ hai. Các con của ông ta
đã trưởng thành, đã thành
đạt, đã có một vị trí
đáng kể trong lòng xã hội Mỹ, qua sự
tận dụng tối đa những ưu thế của
một nền giáo dục tiên tiến cùng sự
yểm trợ của chính quyền mà rất nhiều
người đồng hương của bà
không biết tận dụng, hoặc thậm chí,
không hề biết tới. Cũng qua người bạn
Việt Nam, bà người Mỹ còn nghe nói
tới bao nhiêu những câu chuyện rất
đáng khâm phục của gần 1 triệu
rưỡi người Việt Nam trên đất Mỹ,
về những thành phố lớn đông đảo
người Việt như ở California, Texas, Virginia v. . v. . Ở những nơi ấy, có thể
người tị nạn Việt Nam không có nhu cầu
học tiếng Anh cấp thiết như người bạn
của bà ngày nào, vì tất cả mọi
sinh hoạt chợ búa, dịch vụ, công việc
người ta có thể sử dụng tiếng Việt
thay cho tiếng Anh. Nói cách khác, chỉ sau một
thời gian không dài lắm, quê hương của
bà đã tạo cơ hội cho những con
người thất cơ lỡ vận ấy xây dựng
lại một quê hương nhỏ bé của
riêng mình trên mảnh đất lưu vong.
Ngày gia đình người bạn Việt Nam
đến tòa Thị chính thành phố để
làm lễ tuyên thệ trở thành công
dân Mỹ, bà không ngạc nhiên chút
nào khi thấy họ ăn mặc
trịnh trọng như đi dự một ngày hội
lớn. Có lẽ đây là sự
kiện trọng đại nhất đối với họ
kể từ ngày đặt chân lên đất
nước của bà nhiều năm về trước.
Sau buổi lễ, họ mời bà đến nhà
ăn tiệc mừng. Bà mang đến
cho họ một chiếc bánh ngọt khá to với
hình lá cờ Mỹ rực rỡ trên mặt
và hàng chữ thật rõ nét "God bless
America", vừa để mừng họ trở
thành công dân Mỹ như bà, vừa để
cám ơn họ đã nhắc nhở cho bà về
những sự may mắn mà bà đang thụ
hưởng khi là công dân kỳ cựu của
một quốc gia có nhiều sắc dân khác
nhau nhất trên thế giới.
Cũng kể từ khi quen biết gia đình
người bạn Việt Nam, bà chăm chỉ
hơn với việc treo cờ trước nhà
vào mỗi dịp lễ lớn như Chiến sĩ
trận vong, Lễ Độc Lập mùng 4 tháng 7
v. . v. . Vì người
bạn Việt nam của bà không chỉ treo
lá cờ Mỹ trong những dịp ấy, mà
ông ta còn treo lá cờ Việt nam bên cạnh,
nhưng ở một vị trí thấp hơn.
Ông giải thích rằng, đó là
lá cờ tượng trưng cho lý tưởng tự
do mà ông ta và bạn hữu theo đuổi,
vì lý tưởng ấy mà họ đã
chiến đấu, đã đổ máu,
đã chịu tù đầy, và cũng
vì lý tưởng ấy mà họ có mặt
trên mảnh đất có bức tượng Nữ
Thần Tự Do lừng danh với hàng chữ
thiêng liêng "Hãy
đem cho ta những kẻ khốn cùng, những
đám nhân quần bị đày đọa hằng
khát vọng được hít thở không
khí của tự dọ . . (Emma Lazarus)".
Thêm một lần nữa, người
bạn Việt nam đã "dậy" cho người
phụ nữ Mỹ bài học về lòng tự hào dân tộc.
Chính cái tự hào của người di
dân khi được định cư trên mảnh
đất này đã khiến bà biết tự
hào là người dân bản xứ, là
người đã từng góp bàn tay
mình tạo dựng nên một miền đất
khiến cả thế giới thèm khát khi
nhìn vào, kể cả kẻ thù xưa
đã từng không tiếc lời nguyền rủa.
Người phụ nữ Mỹ, trong lúc chuẩn
bị lá quốc kỳ đem ra treo trước cửa
nhà mừng lễ ký kết bản Tuyên
Ngôn Độc Lập lần thứ 232 (kể từ
năm 1776, khi ấy nước Mỹ chỉ có 2 triệu
rưỡi dân, nay sau 232 năm, đã lên tới
304 triệu người, bao gồm cả gần 1 triệu
rưỡi người Việt Nam), bà nhớ đến
câu nói nổi tiếng của vị tổng thống
Mỹ thứ 35 trong buổi lễ nhậm chức : "Đừng hỏi tổ
quốc đã làm gì cho bạn, hãy tự
hỏi bạn đã làm gì cho tổ quốc"
(Ask not what your country can do for you; ask what you can do for your
country. - President John F. Kennedy, 1961)
T. Vấn
(Lễ
Độc Lập Hoa Kỳ 2008)
*Chú thích: "Hãy đem cho ta những
kẻ khốn cùng" (Nguyễn xuân Nghĩa chuyển
nghĩa tiếng Việt), một câu trích trong
bài thơ The New Colossus của Emma Lazarus, được
khắc trên bệ đài của tượng Nữ
Thần Tự Do.
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)