Những đứa con
đi tìm mẹ
- Chiến dịch nhân
đạo Babylift tháng 4 năm 1975
(T. Vấn)
1.
Đối với những bà mẹ,
chiến tranh là một con quái vật. Nó nuốt chửng con cái của
họ. Cả những đứa đã trưởng
thành lẫn những đứa còn đỏ hỏn
phải bế trên tay. Ở bên
này hay bên kia chiến tuyến,
nỗi đau mất con của những bà mẹ
đều giống nhau. Nhưng mất con, vì
chúng đã đủ lớn và đi theo tiếng gọi của lý tưởng,
của tổ quốc, trái tim người mẹ tuy
có vụn vỡ hàng ngàn mảnh nhưng vẫn
có thể chịu đựng được. Sau cuộc
chiến, hàng trăm ngàn bà mẹ có con
chết trận ôm di ảnh con mình trong căn
nhà quạnh quẽ. Với họ, thắng
hay thua trong cuộc chiến vừa chấm dứt chẳng
mang một ý nghĩa gì trọng đại.
Họ chỉ biết một điều :
con của họ đã không trở về.
Nhưng với những bà mẹ thất lạc
con mình - trong lúc loạn lạc, trong lúc gồng
gánh tản cư ra khỏi vùng bom đạn, hay
đành phải đem con bỏ chợ, đem con
đến cho những viện mồ côi, vì chiến
tranh đã tàn phá nơi ăn chốn ở
của bà, đã khiến không còn một
phương tiện kiếm sống nào có thể
giúp bà mỗi ngày đem thực phẩm về
nhà, để lựa chọn cuối cùng
không thể khác hơn là đưa chúng
vào nơi ít nhất chúng được bữa
ăn hàng ngày ,- thì nỗi đau tuy
không xé lòng như những bà mẹ
có con chết trong cuộc chiến, vì ít nhất
bà còn có hy vọng có ngày nhìn
lại mặt con, cái nỗi đau của cuộc
sinh ly chứ không phải tử biệt, liệu
có dễ dàng chịu đựng hơn không
?
Nỗi đau mất con nào cũng giống nhau,
dù sinh ly hay tử biệt. Tử biệt, ôm di ảnh
con, khóc cho nhòe nhoẹt hết cái khuôn mặt
quá đỗi quen thuộc, quá đỗi
thương yêu ấy, rồi lặng lẽ tập
cho quen với quãng đời còn lại không
còn đứa con dứt ruột đẻ ra ấy nữa
. Sinh ly, xa con khi nó còn đỏ hỏn, khi
nó cần đến nhất bàn tay chăm
sóc của người mẹ, khi thế giới của
nó lúc ấy chỉ duy nhất là bóng
hình người mẹ, và rồi sau đó
trong suốt quãng đời còn lại của
bà, mỗi đêm nằm xuống dỗ giấc
ngủ, liệu tiếng gào xé lòng gọi mẹ
của đứa con bị bỏ lại trong viện mồ
côi hay hình ảnh bọc tã nhem nhuốc
gói thân hình còm cõi của hài
nhi thiếu sữa nằm chơ vơ trên bực thềm
bước vào bệnh viện phụ sản, có
làm cho bà không thể nhắm mắt
được trong suốt nhiều năm tháng,
dù cho bà đã có thêm những đứa
con và có khả năng chăm sóc chúng
đầy đủ như bà mong ước.
Hơn ba mươi năm sau chiến
tranh, những câu chuyện về mẹ và con vẫn
còn được nhắc đến.
Những đứa con đã yên nghỉ
trong lòng đất, chắc chắn vẫn còn
được nhớ đến bởi người mẹ
của mình. Bao lâu người mẹ
còn sống, nấm mồ con sẽ không bao giờ
hương tàn khói lạnh, hồn đứa con
vẫn ấm áp nhờ tấm lòng không bao giờ
nguội lạnh của người mẹ già.
Những đứa con năm xưa phải xa
lìa vòng tay mẹ, may mắn sống
sót sau bao nhiêu biến thiên của đất,
của trời, của người, nay lưu lạc khắp
nơi trên toàn thế giới, hẳn không thể
quên cái nguồn cơn khiến mình là
đứa con bị bứt khỏi rễ mẹ năm
xưa. Và chắc chắn, người mẹ của
chúng, nếu còn sống , cũng
vẫn nhớ đến giọt máu tội nghiệp
mình bỏ rơi những ngày ấy binh đao.
Và có hay không, những cuộc
đoàn tụ, cái mong ước và là sự
an ủi của hơn ba mươi năm trước khi
bà gạt nước mắt, cương quyết dứt
khỏi bàn tay nắm chặt tuyệt vọng của
con, rồi quày quả bỏ chạy vì sợ
cái định mệnh còn tàn nhẫn hơn
nữa đổ ụp xuống con mình nếu
bà chần chừ rồi đổi ý.
Trên đời này, liệu còn có
cuộc chia tay nào đứt ruột hơn nữa không ?
2.
Những ngày đầu tháng 4 năm 1975, giữa
một miền Nam xôn xao về những giải
pháp chấm dứt cuộc chiến, hàng
ngàn trẻ em mồ côi được chính
phủ Hoa Kỳ tìm cách đưa chúng rời
khỏi đất nước (chiến dịch nhân
đạo mang tên Babylift ) theo
yêu cầu của các tổ chức từ thiện
để tránh những thiệt hại có thể
xẩy đến do chiến tranh đang tiến dần
vào các thành phố lớn. Trong
số đó, có đứa còn chưa biết
nói, có đứa đã có chút
trí khôn và trí nhớ để biết
mình là ai và hiểu được thân
phận lạc loài của mình.
Giờ đây, những đứa
trẻ năm xưa đã trưởng thành,
đã mang một cái tên khác hẳn với
cái tên do cha mẹ đẻ đặt cho. Hồi ức của 34 năm về
trước vẫn cứ tươi rói như mới
vừa xẩy ra với những đứa con lưu lạc
ấy.
Lee Stefin, được biết dưới cái
tên Việt là Đặng thị Hiệp khi
còn ở Việt Nam, là con nuôi của một
gia đình người Mỹ. Cô nguyên là
con đẻ của một quân nhân Mỹ và
người mẹ Việt Nam. Hiệp, lúc đó
mới 9 tuổi, cùng với 2 đứa em trai ở
trong số trẻ em được chiến dịch
nhân đạo Babylift ngày ấy cứu vớt. "Mẹ tôi nói rằng có lẽ
chúng tôi sẽ không bao giờ được
gặp lại mẹ nữa, rằng tôi có bổn
phận phải cố gắng hết sức giữ cho 3
chị em chúng tôi luôn ở bên nhau.
Và đó là lần cuối cùng tôi gặp
mẹ . Rồi máy bay cất
cánh. Tôi nhìn ra cửa sổ và tự hứa
với mình rằng rồi sẽ có ngày
tôi trở lại mảnh đất này để
tìm người mẹ thân yêu"
.
Trong bao năm trời, Lee, tức Hiệp,
luôn nghĩ đến nguồn gốc của
mình, và nhất là hình ảnh người
mẹ khốn khổ trên một đất nước
cũng khốn khổ không kém. "Tôi không thể
không nghĩ đến mình là người
được sinh ra ở Việt nam". (Tôi vừa là người Mỹ lẫn
người Việt.) Tôi là cả hai . Mới đây, cùng với hai
người bạn có cùng thân phận lạc
loài như mình, cùng rời đất nước
trong chiến dịch Babylift tháng 4 năm 1975, Hiệp
quay trở về Việt Nam để tìm lại
người mẹ tội nghiệp năm xưa, để
tìm lại gốc rễ của mình. Ở số tuổi trên 40 hiện nay, Hiệp
nghĩ về quê hương Việt Nam như
nghĩ về người mẹ của mình. Quê
hương là mẹ. Tìm thấy mẹ là
nhận lại được quê hương. Nhưng cô không gặp lại được
mẹ mình. Hay đúng hơn, ở chuyến
đi này, Hiệp chưa gặp lại được
mẹ mình . Cô về lại
đúng nơi chia tay mẹ năm
xưa, với trí nhớ của một đứa trẻ
9 tuổi. "Khi mà mình sống ở
một nơi thật xa và không một ai có
những kỷ niệm như mình có, đôi
lúc, mình có cảm tưởng giống
như đang ở trong một giấc mơ do chính
mình tưởng tượng ra. Giờ
đây, đứng trước khung cảnh bấy
lâu nay chỉ ở trong trí tưởng, mình
mới tin đó là có thật". Nhưng người
mẹ mà cô khao khát muốn gặp lại, vẫn
chỉ ở đâu đó trong những giấc
mơ.
Liz Sowles, người bạn đồng hành của
Hiệp, rời đất nước khi còn đỏ
hỏn, có lẽ khoảng 6 tháng tuổi. "Hình như tôi được sinh ra
vào tháng 10 (1974). Không
có ai đoan chắc về điều này cả.
Tôi bị bỏ nằm một mình
trước cửa một bệnh viện phụ sản.
Có người nhặt tôi lên
rôi kể từ đó, mọi chuyện liên
quan đến tôi chỉ là do phỏng đoán
hoặc bịa đặt". Khi Liz, người
không bao giờ được biết tên và họ
Việt nam của mình, đặt chân lên bậc
thềm bệnh viện phụ sản nơi cô bị
bỏ rơi mấy mươi năm trước,
đã bật khóc như một đứa trẻ.
Có lẽ cũng là âm thanh tiếng khóc
hài nhi Liz ngày nào. Cô có biết mẹ mình là ai
đâu mà tìm, mà hỏi. Theo
chân Hiệp trở về quê mẹ, để chỉ
tin rằng mình cũng có một người mẹ.
Chứ không phải từ đất chun
lên, từ trời rơi xuống. Với Liz, hình
ảnh bậc thềm một bệnh viện phụ sản
ở Việt Nam
sẽ mãi mãi là hình ảnh quê
hương của một người mẹ không bao
giờ biết mặt. Dẫu sao, cô tự an ủi rằng mình cũng có một
quê mẹ.
Nhưng vẫn có người may mắn hơn.
Một cô gái được nhận làm con
nuôi ở Úc, 28 năm sau đã tìm lại
được người mẹ ruột của
mình, nhờ vào bức thư đầy nước
mắt của người mẹ trẻ nhét theo
vào với mảnh tã quấn quanh người
đứa con. Sau bao nhiêu những nỗ lực của
đứa con, họ đã gặp lại nhau.
Nhưng người mẹ không nói được
tiếng Anh, đứa con gái không nói
được tiếng Việt. Ngôn ngữ trao đổi
giữa mẹ và con lại trở về như thuở
nguyên sơ, khi con còn nằm trong vòng tay mẹ,
khi con chưa biết nói và chưa hiểu tiếng
người, nhưng người mẹ biết rất
rõ con mình muốn gì và đứa con cũng
biết rất rõ phải làm gì khi
đói, khi khát, khi cần được mẹ
âu yếm, bế bồng. Dù sao,
cô gái người Úc gốc Việt ấy cũng
quyết tâm học tiếng Việt, vì, như
cô thố lộ, chỉ bằng cách ấy cô
mới trọn vẹn tìm lại đuợc người
mẹ ruột của mình.
Câu chuyện một cô gái
khác tìm lại được mẹ của
mình như một phép lạ. Năm 1968, cô mới 1
tháng tuổi, bị người vú nuôi
đem cho một viện mồ côi ở Nha Trang. Nơi đây, người ta đặt
tên cô là Nguyễn thị Mỹ Liên.
Năm 1972, Mỹ Liên được một
gia đình người Mỹ nhận làm con
nuôi và có tên mới là Joy My Lien
Degenhardt. Năm 1993, Joy My Lien đến
Việt Nam
để điều hành cơ sở viện trợ
nhân đạo Degenhardt (Degenhardt Foundation) do chính cha
mẹ nuôi của cô thành lập. Trong
lúc vừa làm công việc chính của
mình là phải di chuyển khắp nơi để
thực hiện các công tác cứu trợ ở
12 thành phố và tỉnh thành, cô vẫn
tìm thời giờ lùng kiếm người mẹ
mà cô chưa từng biết mặt. Trong 15 năm
làm việc ở Việt Nam, tuy chưa tìm ra
được tông tích của mẹ, nhưng nhờ
nỗ lực tìm kiếm ấy , cô đã nhận
được hàng trăm bức thư từ những
người mẹ có con cái bị thất lạc
vì nhiều nguyên nhân khác nhau, mà phần
lớn đều vì chiến tranh, loạn lạc. Cũng từ những đầu mối
đó, Joy My Lien cùng với những cộng sự
viên Việt Nam,
đã giúp 17 bà mẹ đoàn tụ
được với những đứa con của
mình. Số còn lại, tuy
không tìm thấy con, cô đã giúp
đỡ họ có một cuộc sống thoải
mái hơn.
Nhiều lần, Joy My Lien đến Nha
Trang làm việc, thành phố quê hương
năm xưa cô được sinh ra. Mỗi lần ghé Nha Trang, cô
đều đến ăn cơm ở nhà hàng
quen thuộc P.B. Theo lời cô, nơi ấy chưa hẳn
đã có thức ăn vừa miệng cô,
nhưng ngày từ lần đầu tiên bước
vào, cô đã có một linh cảm
khó tả. Đó là lý do cô chọn
nhà hàng P.B. để ăn mỗi khi đến
Nha Trang. Lần cuối cùng ghé Nha Trang,
Joy My Lien không ghé qua nhà hàng ấy nữa.
Cùng thời gian đó, nhà
hàng P.B. đổi chủ. Tháng
12 năm 2008, sau bao nỗ lực tìm kiến mẹ ruột
của mình, Joy My Lien biết được tông
tích của mẹ. Đó chính là
bà Bùi thị Lai Ninh, người chủ cũ của
nhà hàng P.B. Gặp lại con mình, bà mẹ
Bùi thị Lai Ninh chỉ nói được hai tiếng
"con ơi !" rồi ngất xỉu.
Joy My Lien Degenhardt Nguyễn thị Mỹ
Liên không cần đến bất cứ chứng
cớ nào, kể cả thử nghiệm DNA, để
tin rằng chính bà Bùi thị Lai Ninh là mẹ
ruột của mình. Bởi vì, theo câu nói bị ngắt quãng
vì phải ngưng lại để lau nước mắt
của cô, không một ai ngoài mẹ ruột của
cô biết được rằng cô có một
cái bớt (birth-mark) màu nâu bên vai
trái và 2 mụt ruồi bên vai phải. 41 năm , khoảng thời xa cách dài
lê thê, vậy mà bà vẫn nhớ từng
nét đặc biệt trên thân thể đứa
con mất tích từ khi mới 1 tháng tuổi.
Chỉ có tấm lòng người
mẹ mới chứng tỏ được điều
khó tin ấy.
3.
Thuờng thì chỉ có những
người mẹ đi tìm con. Vì nước mắt
vốn chảy xuôi. Và vì tình mẹ
thương con (cùng với người cha) là thứ
tình cảm duy nhất trên đời không hề
biết đến đổi thay, bất kể mọi
thăng trầm của thế sự. Nhưng hoàn cảnh
những bà mẹ Việt Nam trong và sau cuộc
chiến đã không cho phép các bà
làm công việc mà các bà hằng ao
ước ấy khi lìa bỏ con năm xưa. Cho nên, những đứa con Việt Nam lạc loài
đã phải đi tìm kiếm người mẹ
của mình. Đồng thời,
làm cuộc hành trình trở về nguồn.
Không phải tất cả những đứa
con lạc loài năm xưa vẫn nhớ đến
nguồn gốc của mình. Không phải tất cả
những đứa con trở về lại nơi sinh ra
đều đã hưởng được niềm
vui đoàn tụ. Nhưng , ít
nhất, chảy trong huyết quản chúng, vẫn
là dòng máu Việt và tình mẫu tử
truyền thống.
Những câu chuyện được kể lại
ở trên chỉ là vài mẩu chuyện trong
hàng trăm mẩu chuyện con đi tìm mẹ xẩy
ra sau cuộc chiến tranh tàn khốc. Dẫu
sao, sinh ly vẫn còn hơn là tử biệt.
Bởi vì , còn sống là
còn có ngày gặp nhau.
Xin cầu nguyện cho những đứa con chưa
được gặp mẹ và những người
mẹ đang mòn mỏi mong được nhìn lại
đứa con lạc loài năm xưa trước khi
nhắm mắt lìa đời.
T.Vấn
© T.Vấn 2009
(Bai Chuyen)