Nợ đời một nửa
còn một nửa ơn em
(PHẠM TÍN AN NINH)
* Viết cho em
và những người vợ
lính trung hậu
Thời còn
đi học, lang thang từ Nha Trang đến Sài
Gòn, dù con nhà nghèo, học tàm tạm,
và nhan sắc dưới trung bình, tôi cũng
đã mang tiếng đào hoa. Cho nên có muốn
kéo dài thêm cái đời học trò
để được mơ mộng đủ thứ
chuyện dưới biển trên trời thiên hạ
cũng đâu có cho.
Rồi có phải
thuộc giòng hào kiệt gì đâu,
tôi cũng xếp bút nghiên theo việc kiếm
cung. Nói kiếm cung cho nó vẻ văn
chương và lãng mạn, chứ thực ra
tôi vào lính, mà lại là thứ
lính hạng bét thì làm gì có kiếm
với cung. Có phải lính tàu bay tàu thủy
gì đâu, mà là lính đi bộ.
Lúc băng rừng lội suối, mặc bộ đồ
trận hôi hám cả tuần không tắm,
tôi ghét cay ghét đắng cái ông
nào là tác giả cái câu “Bộ
Binh là nữ hoàng của chiến trường”
mà tôi đã đọc được ngay từ
khi mới vào quân trường, đếm bước
một hai để hát bài “đường
trường xa”. Khổ thì khổ vậy, chứ
mấy cô gái bé bỏng hậu phương lại
mê lính trong mấy bản nhạc của ông
Nhật Trường. Vì “nếu
em không là người yêu của lính, ai
thương nhớ em chiều rừng hành quân, ai
băng gió sương cho em đợi chờ, và
giữa chốn muôn trùng ai viết tên em
lên tay súng ? .. ”.
Nhờ vậy,
trong mấy năm đóng quân dọc đường
số 1, nơi nào tôi cũng để lại
vài mối tình con. Tôi nghĩ đời
lính như vậy mà vui, thì thôi chớ
tính chuyện vợ con làm gì cho nó
vướng chân vướng cẳng. Hơn nữa
tôi cũng hiên ngang với đám con gái lắm,
thì làm gì có chuyện “chết trong
mắt em”. Vậy rồi trời xui đất khiến
thế nào, sau mấy năm đánh đấm ở
Quảng Đức, Ban Mê Thuột rồi Bình
Định, Phú Yên, đơn vị tôi
được mấy cái tàu há mồm chở
vào bỏ xuống bãi biển Nha Trang vào
lúc đường phố mới lên đèn.
Tôi thấy
lòng lâng lâng sung sướng vì không
khí yên bình của thành phố biển,
mà cũng vì tưởng mình đã
được trở về với những “hang
động tuổi thơ” của ông Nguyễn
Xuân Hoàng. Nào ngờ, khi còn mải
mê với mộng mị, tôi bị đánh thức
lúc nửa đêm cùng đơn vị leo
lên một đoàn xe mấy chục chiếc để
tiếp tục “hát khúc quân
hành”. Đoàn xe ra khỏi thành phố,
qua Ty Thông Tin, ra quốc lộ 1, trực chỉ hướng
bắc. Tôi lại mừng thầm, nghĩ là sẽ
được về dưỡng quân ở huấn
khu Dục Mỹ. Nhưng tôi đã “ước
tính tình hình” sai bét. Đoàn xe
dừng lại tại bùng binh, ngã ba Ninh Hòa.
Một tiểu đoàn lính đổ xuống
cái thị trấn còn đang say ngủ. Đại
đội tôi nhận lệnh vào đóng
quân trong sân vận động.
Sáng hôm
sau tôi rủ mấy thằng bạn, quần áo chỉnh
tề, ra phía trước “thăm dân cho biết
sự tình”. Thấy một ngôi nhà mở
cửa, bọn tôi bước vào làm quen. Chủ
nhà là một cô gái nho nhỏ dễ
thương, mời đón mấy thằng lính
trời ơi đất hỡi mà miệng vui cười,
e thẹn nhìn tôi bằng cặp mắt nai tơ.
Vậy mà thằng lính ngang tàng như
tôi lại chết trong đôi mắt ấy. Bắt
đầu từ một chuyện tình cờ như vậy
đó, mà tôi trở thành chú rể
của Ninh Hòa hơn một năm sau. Trường Trần
Bình Trọng cũng vừa có một cô học
trò bỏ trường, bỏ lớp, bỏ bạn
bè và bỏ cả đội múa
"Trăng Mường Luông".
Bây giờ cứ
mỗi lần đọc bài thơ của ông
nhà thơ Quan Dương, người Ninh Hòa,
là tôi nhìn thấy có tôi trong
đó :
Hồi
nhỏ tôi rất anh hùng
Một
mình dám nhảy cái đùng xuống
sông
Bơi
nghiêng, bơi ngửa giữa dòng
Hiên
ngang trấn giữ một vùng tuổi thơ
Lớn
lên trở chứng ngu khờ
Mắt
em nào phải bến bờ sông sâu ?
Cớ
sao chưa kịp lộn nhào
Đành
chịu chết đuối, thiệt đau, đúng
là …
Nàng làm vợ
lính đúng tám năm. Tám năm khốn
khổ lo âu. Vì lúc nào cũng có thể
trở thành góa phụ. Đã vậy đứng
ở Ninh Hòa lúc nào nàng cũng nhìn
thấy hòn núi Vọng Phu sừng sững cuối
chân trời! Nhưng rồi nàng không trở
thành góa phụ mà lại trở thành
tù phụ. Cơn sóng bất ngờ phủ xuống
miền Nam, cuốn nàng theo cùng những người
có chung số phận. Thân phận bọt bèo
với một đàn con dại, cô học
trò Trần Bình Trọng bé nhỏ ngày
nào bây giờ phải một mình chống chọi
với phong ba.
Riêng tôi, một
thằng lính bất ngờ thua trận thì chuyện
tù đày nào có than chi. Chỉ tội
nghiệp cho “người tình bé nhỏ”
ngày xưa. Tôi tự trách mình, giá
mà ngày đó tôi đừng ra khỏi
cái sân vận động, không gặp
nàng, thì biết đâu nàng chẳng
tìm lại một cố nhân nào đó -
mà tôi thường nghe nàng nhắc đến
với lòng ngưỡng mộ - bây giờ
đã là một ông quan hải quân, sẽ
đưa nàng xuống tàu ra khơi đi
tìm vùng đất hứa. Rồi nàng bỗng
dưng trở thành con cò lặn lội bờ
sông của ông Trần Tế Xương, để
nuôi đủ sáu con với một chồng -
ông chồng gần tám năm biền biệt ở
các trại tù Lào Cai, Yên Bái.
Tôi còn nhớ
lúc ở trong tù, tôi may mắn nằm bên
cạnh nhà thơ lớn Tô Thùy Yên.
Tôi rất quý anh vì anh là một người
tù có tư cách. Thấy tôi dốt
nát mà cũng thích thơ văn, anh làm tặng
tôi một bài thơ khá dài và hay lắm.
Nhưng lúc bị cai tù kiểm tra, tôi
nhát gan nên bỏ cả bài thơ vào miệng
nhai nát rồi nuốt vào cái dạ dày
đang đói. Vì vậy tôi không còn
nhớ hết mà chỉ thuộc lòng mấy
câu viết về nàng:
Tám
năm áo rách bao nhiêu lượt
Em
vá chồng lên những nỗi niềm
Từ
thuở anh đi nhà tróc nóc
Con
thơ đâu còn biết vui cười
Cô
gái Ninh Hòa, thương quá đỗi
Một
mình chèo chống giữa phong ba ..
Ra khỏi trại
tù, dường như tôi chỉ đem về cho
nàng thêm những đắng cay. Với một
người chồng còn mang đầy những vết
thương cả trên thể xác lẫn tâm hồn,
cùng một đàn con thơ dại, giữa một
xã hội chất chồng thù hận, nàng biết
xoay xở làm sao ? Cuối cùng, nàng phải
cùng chồng con, đem sanh mạng đánh một
canh bạc cuối cùng.
Có lẽ
ông trời không phụ lòng nàng. Chuyến
đi vội vã, chuẩn bị chưa xong, rồi cũng
đến được bến bờ. Trong lúc bao
nhiêu người tìm cách tận hưởng
hạnh phúc của một điều tưởng chừng
may mắn nhất của con người, hoặc ít
ra cũng ngơi nghỉ để hoàn hồn từ
cõi chết, nàng lại tiếp tục làm kiếp
con cò trong một vùng băng tuyết mênh
mông, lo lắng cho con, để cho chồng học
thêm vài ba chữ và vác ngà voi chạy
đủ thứ chuyện bao đồng.
Bây giờ những
đứa con đã trưởng thành. Nàng
chiều chồng để cho mỗi đứa tự chọn
đất nước nào nó thích mà dung
thân. Mỗi đứa một phương trời.
Nàng lại là một hậu phương cho
các con đi vào trận mới. Ngôi nhà
trở nên trống vắng. Cuối cùng nàng
cũng chì còn có tôi, người
lính thất trận năm nào, đã mang
đến cho nàng biết bao là hệ lụy.
Dư âm cuồng nộ của những cơn dông
bão năm nào dường như vẫn còn
đâu đó trong giấc ngủ của riêng
nàng.
Tuổi sắp
già, mà tôi còn mang nhiều món nợ.
Biết làm sao trả cho xong. Nợ núi sông, nợ
máu xương bè bạn. Mà khổ thay,
tôi thì cứ mãi là thằng lính
hèn mọn, bạc tình. Và tôi còn nợ
nàng, nợ Ninh Hòa. Mảnh đất hiền
hòa đã cho tôi một người vợ chung
tình, cùng tôi qua bao cuộc biển dâu.
PHẠM TÍN AN NINH
(Huôn Trinh sưu tầm
và chuyển)