THỀM
XƯA
(Tác Giả: Phan)
Chiều
đã lười trải nắng, tôi ngồi bên đây
đường, nơi một quán xá dửng dưng ở
Việt Nam, nhưng nhìn qua bên kia đường là nhà tôi
xưa cũ.
Nơi tôi
đã mang dấu ấn tuổi thơ suốt cuộc
đời. Ở đó không có gì ngoài những nỗi buồn
trẻ thơ nhưng khó quên. Ở đó là một con
đường đất đỏ dài chừng cây số,
chỉ đủ hai chiếc xe đạp ngược chiều
không cần giảm tốc độ khi gặp nhau,
nhưng xe gắn máy thì đã phải cẩn thận, còn xe
hơi thì tôi chưa hề thấy trên con đường
thân quen ..
Người
chủ quán chiều nay rất tinh ý, tuy tôi không nói gì hơn
xin cô cho chai bia thì cô cũng nhận ra tôi không phải
người ở đây; chẳng qua tôi ở đây khi cô
chưa đến đó thôi. Cô thấy tôi ngồi một
mình nên thương cảm. Nhưng dù sao tôi cũng cảm
ơn cô chủ đã tiếp đãi tôi bằng ngôn ngữ
khác hơn ngôn ngữ cô dùng với khách quen của cô.
Thế là những
hớp bia vơi theo chiều, tôi hình dung lại những
năm năm mươi, sáu mươi của thế kỷ
trước. Cả vùng này hoang vu, ngay ngọn lúa cũng
không có mà chỉ toàn cỏ dại, rùa, rắn .. Rồi
người lớn nói với tôi rằng ông Diệm đốt
nhà khu ổ chuột bên Hãng phân, tức khu Cư xá Khánh Hội
sau này. Thôi thì chuyện người lớn để lịch
sử trả lời vì người lớn của tôi
cũng là những người có tuổi còn hiểu biết
của họ là chuyện tôi không rành. Nhưng đó lại
là lý do tôi biết vùng đất này vì gia đình tôi đã về
đây sau vụ cháy nhà lớn bên quận tư, mà mãi khi ra
hải ngoại tôi mới đọc được trên
vài tài liệu về vụ cháy nhà thời Tổng thống
Diệm.
Nhưng
đến năm 1968 thì tôi nhớ rõ Tết Mậu Thân.
Năm đó, Việt Cộng pháo kích dữ. Nhà nào cũng
đào hầm và tập cho con nít cách tuột xuống hầm
nhanh nhất khi nghe tiếng rocket xé toạc vùng trời bình
yên. Có những gia đình khốn khổ hơn gia đình
tôi-dù gì cũng đã ổn định là những gia
đình dưới miền tây chạy giặc lên ngoại
vi Sài Gòn lánh nạn. Họ là những gia đình nạn nhân
cũng có mà cộng sản nằm vùng cũng nhiều vì
sau 1975, nhiều gia đình ăn cơm quốc gia thờ
ma cộng sản mới lộ diện, thọ ơn bà con
láng giềng giúp đỡ khi họ đến đây
nhưng tình cạn nghĩa tuyệt sau biến cố 75. Có
cả những gia đình chạy giặc ngoài Trung vào sau
mùa hè đỏ lửa 1972.
Chiều tan
dần vào phố xá đã lên đèn, có gió sông ngoài kia thổi
về mùi hôi tanh của giòng sông tuổi nhỏ trong veo những
trưa hè; nhưng nay chỉ còn là con rạch ứ tắc,
nước trôi không nổi rác rưởi đời
thường do người ta tuôn đổ, chỉ tội
những người tìm về bến sông xưa. Không biết
bạn bè thuở ấy có ai về lại; ai nghĩ gì khi
thấy lại mình trên giòng tức tưởi. Riêng tôi nhớ
những cặp cá bống sao rẽ nước mà đi
như hai mũi tên đã biệt tăm mất tích. Loài cá
luôn đi cặp và nghe nói khi con này chết thì con kia cũng
chết buồn. Không biết người yêu của lớp
đàn anh tử trận ngày xưa bây giờ ra sao, chỉ
thấy bến sông như hiện về cây cầu làm bằng
mấy tấm vỉ sắt đáp trực thăng với
mớ cột là cây tràm, cây đước. Chiều chiều,
các chị gánh nước, giặt đồ, trẻ con
bơi lội bì bõm, đàn anh vượt sông sang cù lao
như người đi khai phá; những nhà thám hiểm ..
Bên cù lao tranh
kia, ông già chăn vịt với chiếc xuồng ba lá
đã thành cổ tích những đêm mưa ở một
nơi xa mù cố thổ, vẫn có những đứa trẻ
đã già thấy được bóng đèn hoài niệm trên
bến sông xưa. Ông thắp bóng đèn bão màu đỏ cho
trực thăng đừng bắn nhầm vì tưởng
ông là Việt Cộng mò về phá rối. Rồi khúc quanh
cùi chỏ của con sông là cả một vùng trời bí hiểm
của tuổi thơ với rừng đước bạt
ngàn đã bị sức người tàn phá đến cạn
kiệt màu xanh của lá. Những đàn chim bay đi để
nhường chỗ cho những ngôi nhà mọc lên loang lổ
bầu trời, hoen ố không gian thoáng đãng mà nhiều
người chỉ còn gặp trong mơ. Cuối tầm mắt
tôi là hư vô bên bờ ảo vọng, không có ngày xưa nữa,
dù chỉ là giấc ngủ ngồi, ngủ gục dưới
gốc cây mảng cầu, dù chỉ là ngồi chơi với
bông mướp đực rụng vàng trên mặt đất,
những con ong cần mẫn đã bay về nơi đâu ..
Ngôi nhà lầu
bốn tầng bên kia đường là nhà tôi xưa cũ,
căn nhà mênh mông gió vì đồng không mông quạnh. Từ
ngoài ngõ vào lót chục miếng đan, đến hàng râm bụt,
rồi giậu hoa dài suốt theo mùa rực rỡ những
bông hồng, bông trang, bông cúc, bông vạn thọ .. đến
miếng sân phơi lúa tráng xi măng nên trở thành nơi hội
tụ những tiếng hát cây nhà lá vườn một thời
đã xa. Bước vào cửa lớn nhà tôi là thấy ngay
bàn thờ gia tiên trang nhã, căn phòng khách rộng rãi đến
kê được mấy bàn ăn lớn khi nhà có đám giỗ.
Bên trái là bộ ván một miếng, không biết từ
đâu có miếng ván to lớn đến có thể làm
được bộ ván với chỉ một miếng.
Thông thường
bộ ván ở những nhà hàng xóm được ghép lại
từ ba, bốn miếng ván và dày chừng gang tay. Trong khi bộ
ván nhà tôi chỉ một miếng to lớn và dày đến
ba gang tay nên ngay bên dưới gầm bộ ván là hầm
trú pháo kích. Bộ ván được kê vô góc nhà, chung quanh tấn
bao cát và đào sâu xuống để chứa những giấc
mơ tuổi nhỏ, giai thoại tưởng tượng
về vị thần cây cổ thụ đã chết khi
người ta xẻ gỗ để làm bộ ván này, máu
ông loang ra những vùng đỏ nâu ngộ nghĩnh hơn
là thớ cây, sớ cây .. những ký ức chiến tranh và
hòa bình. Chiến tranh thì nhanh
chân còn mạng, nghe pháo rít trên đầu là nhào xuống hầm
ngay. Nhưng hòa bình thì không nơi trú ẩn vì cán bộ tịch
thu nhà, tịch thu bộ ván chở đi đâu mất.
Tôi chỉ
còn trong ký ức bên phải bàn thờ gia tiên là cầu thang
lên lầu để ngủ. Dưới chân cầu thang là
chỗ ngủ của con chó mực trung thành. Xuống nhà
dưới là phòng ngủ của cha mẹ, xuống tiếp
đến nhà bếp thì có bàn ăn dài như trại lính.
Bên phải, đi xuống bếp, rẽ trái ra chuồng
heo, chuồng gà. Bên trái ra sàn nước, khu nhà tắm, nhà vệ
sinh, có hàng lu đếm tới hết ngón tay cũng không hết
lu nước. Hàng lu im lặng dưới hàng cây mãng cầu
xiêm ngọt lịm những trưa hè. Trong khi bị bắt
lên lầu ngủ trưa thì chỉ tìm cách hái vú sữa ở
phía bên kia nhà. Hóa ra có thật một ngôi nhà lý tưởng
mà từ đó ra đi để không tìm gặp bất cứ
ở đâu.
Tôi về lại
nhà đã nhiều năm sau thời không hộ khẩu ở
quê nhà, ngôi nhà, người thân, cả xóm làng đã bị
cướp ngày làm tan hoang hơn cả chiến tranh. Con
đường đất đỏ ngày xưa đã có một
thời xe nhà binh chạy rầm rập khi lính Mỹ và lính
Nhảy dù về đây lập căn cứ để bảo
vệ Sài Gòn sau Tết Mậu Thân. Con đường
đã thiếu dấu chân qua, thu hẹp lại như
đường mòn vì cỏ dại, chỉ có dấu bánh xe
đạp lẻ loi tôi về thăm nhà lần ấy.
Cả xóm
làng đã bị lùa đi kinh tế mới, hồi
hương về miền tây, miền đông .. nhà tôi chỉ
còn lại chục miếng đan cỏ lấp, sân phơi
lúa nứt nẻ những vết hằn năm tháng, giậu
hoa um tùm cỏ mực vô ưu .. bàn bếp bằng xi
măng như thềm xưa kỷ niệm. Tôi ngồi
đó đến đêm về lần chót trong đời, lảng
vảng những bóng người nhếch nhác ngoài bắc
vào lập nghiệp. Họ sửa sang lại những ngôi
nhà hoang đổ để ở, họ trồng cấy lại
những mảnh vườn trù phú ngày xưa, nhưng chỉ
rặt khoai mì với khoai lang. Mấy
chục năm xã hội chủ nghĩa miền Bắc
không ai trồng cây trái ăn chơi mà người ta chỉ
trồng củ để ăn no.
Ở một
nghĩa tối nào đó thì người dân trong nam xem họ
là kẻ cướp. Nhưng lần về chào bái biệt
mảnh đất quê nhà trước khi đi xuất ngoại,
tôi thấy thương những người khốn khổ
trọn đời. Họ bị xịt thuốc chống
chấy rận trước khi lùa xuống tàu vào năm 1954
đã để lại trong tôi niềm tủi hổ giống
nòi vì bầy gia súc bị lùa lên xe lửa ở những
nước ngoại quốc cũng bị xịt thuốc
sát trùng như thế. Nhưng đợt di cư thứ
hai của người Bắc sau 1975 lại không phải là
chạy nạn cộng sản mà là "giải phóng miền
Nam".
Những cụm
từ mị dân của một tập đoàn làm cho người
dân miền Bắc bị hàm oan vì họ chỉ di cư theo
cái bao tử. Sự đói nghèo do thiên nhiên miền Bắc
đã tạo ra những đợt di dân, là hình ảnh Nam
tiến xa xưa được khoác áo mở cõi .. Tôi không
hình dung được mấy mươi năm xa cách, những
người trố mắt nhìn người khác không chào hỏi
này đã bằng cách nào mà phát triển khu nhà quê đổ
nát bởi chiến tranh, tàn tạ vì hòa bình này trở nên khu
thị tứ sầm uất. Theo người chủ quán
cóc lề đường cho tôi biết là Đài Loan đầu
tư vào đây khu chế xuất; Đại Hàn đầu
tư khu du lịch .. làm cho đất ruộng trở thành
bạc triệu đô-la. Ngày em theo gia đình vào Nam thì khu
này còn đồng lúa nhưng hoang phế sau đó vì thủy
lợi, người ta bỏ đi kinh tế mới hoặc
về quê .. Một cô bé không chừng tôi có biết trong những
ngày ngập ngụa hận thù.
Đêm tàn
buông làn sương khuya khoắt xuống, tầng một của
ngôi nhà bốn tầng là shop bán quà lưu niệm đã
đóng cửa. Tầng hai là những văn phòng công ty
cũng vắng bóng người. Tầng ba, đèn phòng tắt
dần cho người ta đi ngủ. Nhưng trên tầng
bốn có người làm việc khuya, thỉnh thoảng lại
hắt xuống phố phường những câu tục
tĩu. Những giọng Bắc chưa phai đang miệt
mài suốt canh thâu để rang cà phê lậu. Cô chủ quán
không hiểu tại sao công an phường không biết, công
an kinh tế, quản lý thị trường không hay khi mùi
thơm cà phê bay, lan tỏa đến nhức mũi, nhảy
mũi vì toàn hóa chất .. Không biết cô có ngây thơ thật
không, ước gì cô nói thật để tôi tin là có người
Bắc đã vào Nam sau 75 nhưng không giống người
Bắc mà người trong Nam gọi là Bắc 75.
Đêm xuống
sâu hơn, mang khối sương khuya về đánh thức
ban mai. Quê tôi bây giờ không có ngủ, còn khách là hàng quán còn
bán. Nhưng ai bán tôi mua chục miếng đan khuất lấp
dưới cỏ dại, giậu bông xơ xác, tả
tơi, thềm xưa rêu phủ nhạt nhòa bên kia
đường .. cô chủ quán bảo tôi say rồi! Bác về
nghỉ đi. Chẳng qua tôi ở đây bằng tuổi
thơ của một đời người nên thấy
được xóm làng xưa cũ và một gia đình
đã muôn phương theo vận nước; tôi không ở
đây bằng ước vọng thôn tính miền Nam, làm chủ
căn nhà bốn tầng, nên buồn tủi về già
như cô với cái quán cóc lề đường ọp ẹp.
Tôi chào cô không hận thù như xưa, một chút ngậm
ngùi với người bỏ xứ ra đi như nhau thì ở
đâu có cơm ăn-nơi đó là quê hương, còn quê
nhà thì đã mất vĩnh viễn !!!
PHAN
(T.T.K.D
sưu
tầm
và chuyển)