Cầu Tăng
(Phan)
Tác giả là một nhà
báo, phụ trách mục "Chuyện Vỉa
Hè" trong Ca Dao Magazine ở Dallas. Ông đã góp
nhiều bài viết đặc biệt và nhận
Giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2007.
Bài viết mới của Phan là một hồi ức
tưởng nhớ ba người lính, một ông
là người và hai ông là hồn ma tử
sĩ.
***
Mùa Xuân lại đến với đất
trời, vạn vật nơi quê xa. Ở đây,
thời tiết đất Mỹ se sắt lạnh
làm tôi nhớ đến chứng phong thấp di
truyền. Vậy mà đã mấy mươi
năm nay không trở lại để hành hạ
tôi trong tiết trời đất khách.
Sáng Xuân nay lại về rạng rỡ
như gương mặt đứa con nhỏ được
nghỉ Spring break. Tôi thắp nén nhang lòng
tưởng nhớ cố hương và cố
nhân. Cố hương thì còn lây lất
đó, nhưng cố nhân thì đã
thành thiên cổ. Tôi nhớ chú Thạch
Sao. Hình như chú ấy là bà con của
ca sĩ Chế Linh. Đến tận bây giờ, mỗi
lần thấy Chế Linh trên màn ảnh là
tôi nhớ ngay đến chú Thạch Sao. Tôi cũng
nhớ chú Không, chú Có, hai người
lính trực thăng xương đã vùi
trong rừng từ lâu mà còn hiện hồn cứu tôi.
Cái mạng này còn được đến nay
là nhờ các chú.
. . .
Mùa hè năm 1976. Tôi đi làm rừng
ở vùng kinh tế mới Phước Bình tỉnh
Phước Long. Công việc của năm người
đàn ông (hai thế hệ) là vào rừng
chặt lồ ồ. Dùng dây mây kết lại
thành bè, thả bè theo suối Rạc về
cầu Phú Riềng. Cặp bến - bán cho con
buôn (núp bóng Hợp Tác Xã)
đưa về miền xuôi làm giấy và nhiều
sản phẩm chế biến khác.
Hồi mới gia nhập nghề đi rừng,
tôi thường bị chứng phong thấp mà mẹ
tôi di truyền cho, cứ nóng-lạnh, trở trời
là những khớp xương trên tay tôi
xưng đỏ, đầu gối đau nhức.
Chú Thạch Sao từng nhiều lần thấy
tôi nhăn nhó khổ sở với cơn đau
phong thấp.
Một sáng sớm khi gần đến chỗ
làm, chúng tôi thấy một đàn voi lừng
lững đi. Ông tượng đầu đàn
làm xấu, để lại đống phân to
như cái thúng úp xuống đất.
Khói nóng bốc lên như chú Tàu mở
nắp nồi bánh bao, chỉ có mùi vị -
tương phản. Chú Thạch Sao bảo tôi cởi
giày, đứng vào đống phân
đó. Cha mẹ ơi ... Thấy tôi ngần ngại,
chú dục lẹ lên mày rồi còn
nói phần phước của tôi có Ơn
trên độ mạng, mới gặp may như thế
!
Đứng vào đống phân voi nóng mới
đã điếu làm sao. Hai bàn chân
đang lạnh mưa rừng nghe ấm lạ, có một
loại kiến không cắn - bò vào lỗ
chân lông ... bò dần lên cơ thể
làm ấm dịu những mệt mỏi và
đau nhức tiêu tan. Mọi người đợi
tôi đứng đến khi đống phân voi nguội
lạnh, chú Thạch Sao và chú Đông chúc mừng tôi đã vĩnh
viễn thoát được căn bệnh phong thấp. Tới đó tôi mới hiểu
cách trị phong thấp của người dân tộc.
Tôi cám ơn chú Thạch Sao, còn hứa
đến ngày lãnh tiền bán lồ ồ.
Tôi sẽ đãi chú ấy một con gà
rừng trộn măng le và lá chanh, chấm muối
ớt. Mấy chú nhậu rượu, tôi với
thằng bạn nhỏ, tên Mẫn, hứa chỉ
ăn cháo gà thôi.
Mùa mưa lũ là mùa khốn đốn
nhất cho dân đi rừng ở Phước
Bình. Mùa lũ tháng bảy, kéo dài
qua tháng tám. Suối Rạc nước chảy xiết
vì nước mưa trên núi Bà Rá
đổ xuống. Có những hôm, tôi cắm
cây sào bảy thước còn chưa đụng
đáy. Nhưng tôi thích cảm giác phiêu lưu trên
dòng suối đỏ ngầu. Những chiều về,
trời không mưa thì đầy lý thú.
Chiếc bè trôi phăng phăng trên dòng
suối hung tợn. Lồ ồ và cây rừng hai
bên bờ suối đan vào nhau, xanh ngát. Những
con vượn đen hò hú với người.
Tôi thích giỡn với chúng vì vui.
Có khi chúng đuổi theo chiếc bè
làm xào xạc rừng cây, sách nhiễu
dân tình - chim chóc chí chóe.
Khổ nạn của con đường mưu sinh ấy
là cây Cầu Tăng. Theo chú Thạch Sao,
người lính VNCH từng lăn lộn với chiến
trường ở Phước Long trước 75, cây
cầu này có từ hồi Bắc quân mở chiến
dịch tổng tấn công miền Nam năm 75.
Quân chính quy miền Bắc đã giật
mìn cho ngã hai cây to (thuộc loại cây dầu)
bắc ngang qua suối Rạc để cho xe tăng T54
vượt suối. Từ đó có tên Cầu
Tăng. Hai thân cây to đùng, nằm song song vắt
ngang con suối như
đôi đũa ăn cơm khổng lồ.
Ác nhơn là tất
cả bè về đều phải chui qua Cầu
Tăng. Hôm nào không mưa-nước thấp-cứ
ngồi bình tĩnh ngắm mấy cô cậu
vượn tình tứ. Hôm nào nước
hơi cao, phải khum đầu mới qua lọt. Hôm
nào cái bè nổi đã chí mí Cầu
Tăng thì phải nhẩy xuống nước, qua cầu
lại leo lên.
Kể nghe đơn giản chứ trong thực tế
nguy hiểm lắm ! Giả sử. Trong làn nước
đục ngầu và hung tợn ấy, có một
nhánh cây gẫy chịu đầu xuống hốc
đá nào đó ... Đầu trên
như ngọn chông
trong làn nước đục-chảy xiết. Bạn
gieo thân vào đó thì còn gì sinh
mạng. Tôi thì ỷ tài nhanh nhẹn, trẻ
khỏe. Nên đợi đúng lúc bè
đến cầu là nhẩy hai lần, qua hai cây
gỗ dầu-rớt trở lại chiếc bè vừa
chui qua hai thân gỗ to. Trong chớp mắt như thế,
không phải ai cũng làm được. Tôi
tự hào với thành tích đó lắm.
Cho đến hôm mưa dầm thúi trời
thúi đất. Nước suối chảy xiết,
chiều về vừa đói vừa lạnh. Chú
Đông trong đoàn là lơ xe be lâu
năm ở rừng đã khuyên tôi đừng
nhảy kiểu đó. Nhưng bạn biết
mà: Tuổi mới lớn ... nếu biết nghe lời
thì thành ông cụ non rồi. Phần đứng
trước hiểm nguy-tôi phải chọn lựa nguy
hiểm nào ít hơn. Kết quả là:
Cá không ăn muối cá ươn. Tôi ở
lại Cầu Tăng một mình, sau một cú
trượt chân vì trời mưa trơn trợt.
Con đường sinh lộ-không có !
Tôi biết là cứ đi theo chiều nước
chảy thì sẽ về cầu Phú Riềng.
Nhưng rừng rậm và con suối nào chẳng
quanh co ! Không một tấc sắt trong tay ... trước
khi về đến đó thì sinh mạng
đã giao cho cọp, beo. Một, hai con gấu ngựa
cũng thường gặp lắm. (Loài thú
đó mới dữ tợn, nó đã
táng hai chị em cô Thoa ngoài rẫy khoai
mì đến chết cô em. Cô chị cứ
dùng rựa mà chém điên loạn trong
cơn sợ hãi, chẳng kể em mình hay
thú dữ. Cuối cùng một người chết
không toàn thây, người sống hóa
điên.) Nghĩ đến đó, tôi quyết
định ở lại đây đêm nay. Cũng
đúng với lời dặn dò của chú
Thạch Sao: Lạc đồng đội ở
đâu thì cứ ở yên đó.
Dùng sống rựa gõ vào thân tre, lồ ồ,
tiếng động sẽ vang xa ... Lắng nghe tiếng
gõ hồi âm. Quan trọng là đừng di
chuyển, thì chú đến cứu. Tôi cứ
ở đây, thể nào chú cũng đến
cứu tôi. Dẫu biết trước là
không ai vào rừng cứu tôi giờ này,
tôi chỉ hy vọng ở những chiếc bè về
sau chúng tôi. Đến không thấy gì nữa
thì tìm chỗ ngủ, chiều mai sẽ
đón bất cứ bè nào về quá
giang.
Hôm ấy trời mưa, nên những tay
lì lắm mới dám đi rừng. Những tay
lì vừa thì đi nhưng không về trong
ngày. Họ ém quân trên đồi thượng
nguồn, đốn lồ ồ thật nhiều. Sau
đó, phóng lồ ồ xuống suối, kết
bè sẵn-chờ nước êm thì về bến
ba bốn bè một thể. Họ nấu cơm ăn
và ngủ ngay trong rừng. (Có độ năm sáu
người, vừa đốt lửa, vừa ồn
ào thì không sợ thú dữ tấn
công). Hoàn cảnh thực tại bắt buộc
tôi phải có những quyết định mau lẹ
trước khi trời tối. Tôi đứng trên
Cầu Tăng nhìn bốn hướng âm u rừng
lá thấp. Mưa rừng nhẹ như sương
nhưng lạnh buốt. Cái lạnh đâu từ
trong xương lạnh ra. Cảm giác đói, mệt.
Tôi đã hết hy vọng có bè về,
vì trời mưa tối sớm. Cái ngại nhất
là không có cây rựa trong tay. Tôi
như người lính mất súng. Tôi cố
bứt cọng dây chiều (loại này không
dai bằng dây mây, nên dễ bứt hơn). Rừng
tối dần đến không còn thấy gì
nữa, tôi leo lên cây lớn, cách chân
Cầu Tăng độ năm thước để
có thể nghe ngóng tiếng bè ai về trong
hy vọng ! Cây có góc ngã ba tương
đối ấm vì lá rậm, có thể ngủ.
Dùng sợi dây chiều buộc ngang người,
sau đó buộc vào nhánh cây tương
đối chắc, để nhỡ có ngủ
quên bị té thì sợi dây sẽ giữ
mình lại. Và phải ngủ trên cây
để hạn chế nguy hiểm bởi thú dữ.
Khi đâu đã vào đấy, tôi cố
chống chỏi với
cái đói và lạnh, rồi thiếp đi
lúc nào không hay. Khi tỉnh giấc, rừng
đêm mưa, xòe bàn tay không thấy.
Tôi không có khái niệm giờ giấc,
nơi chốn, nhưng lơ mơ biết mình
đang nóng hầm, rồi sau đó ngất
đi trong cơn sốt mê man.
*
Có người lay tôi dậy. Đó
là hai chú lính đang bị thương. Một
chú băng ngang đầu và bắp đùi
chú bị thương nặng, bê bết máu
khô. Chú kia băng ngang bụng -chắc trầm trọng
lắm ! Chú khom người đi trong đau đớn.
Chú băng đầu nói với chú băng bụng:
"Thằng nhỏ sốt quá, Có ơi! Mày
ráng mở đường cho tao cõng nó."
Vậy là hai chú đưa tôi vào một
căn phòng chật chội nhưng ấm áp. Vết
thương nơi chân chú băng đầu lại
chảy máu ròng ròng ... Chú Có
nói chú băng đầu: "Không ơi !
Mày nấu cho nó miếng cháo. Còn mấy
viên thuốc nè ... cho nó ăn rồi hẵng
cho uống thuốc. Bụng tao đau quá ! Ruột tao
đâu rồi ...?!"
Tôi mê mê tỉnh tỉnh ... Thấy chú
Có bò đến bên tôi, đắp
lên mình tôi cái áo lính te tua của
chú. Chú Không bắc cái nón sắt của
lính ngày xưa lên mấy hòn sỏi
đá gì đó. Chú nhóm lửa nấu
gạo sấy thành cháo. Chú Có ngồi dựa
vào vách phòng đánh đàn
thùng rỉ rả theo tiếng mưa đêm.
Chú ấy hát: "Ôi những con chim đêm... sao
chưa vỗ cánh ... Ôi những anh nông
dân ... sao chưa về làng ... Ôi những
bà mẹ già ... hằng đêm mong con ...
Còn nụ cười trên đôi môi,
còn trái tim, dân ta còn tới ! Vì
Độc lập, vì Dân tộc ... nước
nhà ta tới ! Hãy vùng lên anh chị em
ơi !!!..."
Chú Không đút cháo cho tôi
ăn, cho tôi uống thuốc ... đặt tôi nằm
ngang ngược trong căn phòng chật chội.
Chú Không ngồi dựa vào vách-lim dim ngủ.
Hình như chú đọc kinh ê a ... như con
nít học bài học thuộc lòng. Tôi ngủ
ngon ... giấc ngủ ngon nhất đời tôi. Từ
ngày "giải phóng".
Có người lay tôi dậy ! Tôi cứ
tưởng là chú Không hay chú Có.
Nhưng không phải, tôi lờ mờ nhận ra
chú Thạch Sao. Ngoài trời mưa âm u,
nhưng đã nhìn thấy mặt người.
Tôi hỏi: "Chú Không với chú
Có đâu ?" Chú Thạch Sao nhìn
tôi không nói ! Thời gian lắng đọng.
Chỉ thấy nước mắt lăn dài xuống
hai gò má ốm đến thương tâm của
chú Thạch Sao. Chú móc túi lấy bịt
thuốc rê, vấn điếu thuốc như thường
làm. Đốt lên mà không hút.
Chú dắt vào một góc cạnh, nói một
mình: "Mấy người anh em, cảm ơn nha.
Cho ở ké vài hôm ... tôi trị cái
chân cho thằng nhỏ." Tôi chẳng hiểu
gì hết. Cứ nhìn chú Thạch
Sao-không bình thường.
Sự tỉnh táo đưa tôi về thực
tại, tôi hỏi chú Thạch Sao:
"Ở đây là ở đâu vậy
chú ?"
"Mình đang ở trong xác chiếc trực
thăng rớt ngày xưa. Thôi đừng hỏi
nữa. Mày bệnh rồi phải không ?"
Tôi cảm nhận được đôi
chân mình chật cứng trong đôi giày.
Đau nhức đến không còn chịu nổi.
Tôi nói chú Thạch Sao:
"Hai chân cháu đau quá. Người
rã rượi ... đau. Đau lắm chú ơi
!"
Chú Thạch Sao cởi cho tôi đôi
giàỵ Tôi đau đến ngất đị
Chú bắt tôi phải tỉnh, nghe chú dặn
dò:
"Hai cái chân mày mưng mủ vì
hôm kia mày đứng vào phân voi. Voi ăn
mây nên trong phân voi có gai mây-đâm
vào chân. Bây giờ làm độc ...
mày bị sốt, không có gì đâu.
Bây giờ ăn uống đi, nằm nghỉ ở
đây. Chú đi hái thuốc về đắp,
là khỏi"
Chú cho tôi ăn miếng khô nai, uống
nước mưa. Rồi chú biến đi trong
mưa rừng âm u. Tôi nhờ miếng khô nai
mà tỉnh lại phần nào. Đau nhức
không ngăn được đầu óc nghĩ
suy. Đêm qua tôi ngủ trên cây, sao giờ
ở đây ? Chú Không, chú Có là
ai ? Đêm qua chú Không nấu cháo trong
phòng, sao giờ không thấy cái nón sắt
nào cả ? Tôi nhìn quanh chỉ có cây
đàn thùng, mục rữa trong xó xỉnh.
Tôi biết chú Không, chú Có là ai
rồi ! Tôi nói với hai chú: "Cảm
ơn hai chú cứu mạng cháu đêm qua.
Tôi không còn cảm giác sợ thú rừng
vì niềm tin trong tôi lớn lắm! Tôi biết
hai chú - dù không thấy, nhưng đang
âm thầm bảo vệ cho tôi. Tôi ngủ chập
chờn trong cơn mê.
Chú Thạch Sao đi bao lâu, tôi không
biết. Chú ấy giã lá rừng trong nửa
đốt lồ ồ, làm tôi thức giấc.
Chú vắt nước lá từ ống lồ ồ
cho tôi uống, chú cũng uống. Xác lá
giập nát như bã trầu, chú đắp
lên vết thương trên đùi chú,
xé ống quần rịt lại. Tôi và
chú Thạch Sao, mạnh ai nấy ngủ.
Khi màn đêm buông xuống, mưa cứ
rơi như ngày tận thế. Trong căn phòng
nhỏ ... mùi ẩm ướt, mùi dây leo dại
... Tôi tỉnh thức, mập mờ nhận ra
chú Thạch Sao ngồi dựa lưng vào
vách. Trông chú tiều tụy như người
về từ địa ngục. Không biết chú
thức hay ngủ. Tôi không giám kêu.
Chú trở lại cứu tôi là
đương nhiên. Lính không bao giờ bỏ bạn - nhất
là trong hoạn nạn.
Cha tôi nói thế. Các anh tôi cũng
nói thế. Nhưng sao chú bị thương ?
Tôi thấy thương chú quá ! Tôi
đã hết sốt, đầu óc tỉnh
táo trong mệt mỏi và đói khát. Hai
bàn chân tôi sưng to, to lên mãi ...
đau nhức. Tôi vói lấy nước uống
đựng trong nửa lóng lồ ồ mà
chú Thạch Sao để sẵn cho tôi. Sự vụng
về, đổ tháo làm chú thức giấc.
Màn đêm đã bao trùm bên
ngoài. Trong tiếng mưa đêm rỉ rả ...
buồn đến thê lương. Tiếng chú Thạch
Sao đều đều:
"... Ráng chịu đau đêm nay,
sáng mai chú đi hơi xa mới có loại
lá làm tiêu mủ. Mình phải ở
đây vài ngày vì không về
đường bộ được, đường suối
thì đang lũ."
Tôi hỏi chú:
"Sao chú bị thương vậy ?"
"Mày kẹt lại Cầu Tăng. Chú sợ
mày hoảng ... chạy bậy là chết - rừng
đang mưa lũ. Chú bảo chú Đông
ráng chèo chống một mình để
đưa cha con thằng Mẫn về. Chú phải trở
lại đây với mày. Vừa ùm xuống
suối là mắc kẹt đám chà (rác
rừng trôi trên suối). Hình như có ngọn
lồ ồ lưỡi mác đâm vào
đùi. Cũng còn hên, chứ nó
đâm vào bụng thì Trời cứu !"
"Bây giờ chân chú đỡ chưa
?" Tôi hỏi.
"Nhằm nhò gì ! Chú sống ở rừng
từ nhỏ đến lớn, bị thương ... tự
cứu mình là chuyện thường. Mày với
thằng Mẫn còn nhỏ quá, bay dân Sài
Gòn mà chịu cực được như vầy
là hay lắm rồi. Mày chắc đói lắm
rồi phải không ?"
"Dạ. Nhưng cháu chịu được
mà chú. Có nước uống là cầm
cự được !"
"Lúc chú nhảy bè trở lại
đây ... chỉ còn miếng khô nai của
ông Đông. Bây giờ lại không cho
mày ăn măng được vì mày
đang sốt và chân làm độc. Ay
dà ..."
"Kệ đi chú ơi ! Đói một
hai ngày không chết đâu. Cháu chỉ lo
cái chân không đi được thì
tàn đời. Chú có cách gì
làm cho bớt đau không ?"
"Sáng mai ... chắc chú phải đi cả
ngày mới may ra tìm được loại
lá tiêu độc. Phần trời mưa, rừng
khó đi. Mày chờ chú ở đây ...
không được làm bậy đó nghen
!"
"Cháu biết rồi. Chú Thạch Sao
à ! Làm sao chú biết cháu ở
đây mà đến ?"
"Mày là đứa nhỏ ngoan
đó. Chú biết mày biết nghe lời. Lạc
đâu ở yên đó. Tại chú bị
thương bất tử ... chứ không thì
đã đến đây kịp tối qua."
"Vậy tối qua, chú ngủ đâu
?"
"Nhắm mắt lại chỗ nào là ngủ
chỗ đó !"
"Rồi sao chú đến đây ? Sao biết
cháu ở đây ?"
"Có một sợi dây chiều trên
thân cây gần suối. Chú biết cháu lẩn
quẩn đâu đây. Nhớ đến chiếc
trực thăng này ... Chú chắc chắn
cháu ở đây!"
"Chú nói cháu nghe về chiếc trực
thăng này đi. Cháu không sợ đâu
!"
"Bị rớt hồi nào ... chú
không biết ! Khi mọi người kháo nhau: Ở
Cầu Tăng có ma. Có người thấy hai
ông lính Việt Nam chứ không phải Mỹ.
Chắc hai người bị rớt máy bay. Chú
đến đây thì hai người anh em chỉ
còn xương vương vãi ... bị thú rừng
xơi. Chú gom được một ít, chôn họ
phía này. Mày có đi ngoài thì
đi phía kia nha."
"Dạ chú."
"Đêm qua họ đưa mày vào
đây phải không ?"
"Dạ."
Tôi kể chuyện đêm qua cho chú Thạch
Sao nghe. Chú chẳng nói gì !
Sáng hôm sau, trời chưa tỏ mặt
người, tôi thức giấc, bên ngoài vẫn
mưa nhẹ. Không thấy chú Thạch Sao
đâu. Tôi nằm yên nghe mưa rơi ...
Không còn sốt nên đầu óc tỉnh
táo, nhưng đói kinh khủng và đau nhức
hai bàn chân. Nhìn xuống chân mình,
tôi không còn hy vọng gì nữa ! Một
bàn chân bây giờ đã bằng hai
bàn chân trước lúc đứng vô
đống phân voi. Nghĩ đến tương lai
mà ngán ngẩm. Nếu hai bàn chân tôi
mà phải cưa bỏ thì thà chết sướng
hơn. Mới mười mấy tuổi đầu
mà tàn phế thì sống làm gì nữa
chứ ? Hình ảnh mấy chú thương binh ở
Sài Gòn ám ảnh tôi đến
điên loạn. Tôi quyết định: Nếu
chú Thạch Sao không cứu được hai
bàn chân tôi thì tôi tự sát.
Khi đầu
óc đã rõ ràng thì cơn
đói lại hành hạ thể xác, còn
nhiều hơn đau nhức. Tôi cố gặm miếng
khô nai (chú Thạch Sao để lại), uống
nước mưa trong nửa ống lồ ồ, chú
ấy đã an bày sẵn cho tôi. Chú ấy
ra đi với vết thương nơi đùi,
không một chút gì ăn. Mưa rừng sẽ
làm khó chú ấy nhiều đó. Tôi
thấy thương chú như cha, anh mình. Mà
cũng phải vì cha, anh tôi cũng là
lính. Tôi con nhà lính chánh tông.
Tôi không được chết. Lần này
thoát chết thì tôi đi lính. Tôi
nghe tin đồn: Còn lính trong rừng không chịu
đầu hàng. Tôi sẽ rủ chú Thạch
Sao vào rừng với lính. Tư tưởng con
nít của tôi thay đổi soành soạch ...
hồi muốn đi lính, hồi muốn chết.
Tôi nằm trên sàn máy bay, hai
chân gác lên cao hơn cho đỡ nhức.
Đầu óc bắt đầu mê man, cơn sốt
mới lại đến đem tôi vào mơ hồ,
giả tưởng... Chú Không, chú Có lại
xoắn xuýt bên tôi-chăm lo cho miếng
ăn, giấc ngủ. Chú Có bảo chú
Không: "Chích hai gót chân nó, cho mủ
chảy ra thì bớt nhức." Tôi thấy
chú Không lấy cộng dây đàn đứt,
cứ thế châm vào hai gót chân tôi. Cảm
giác đã ngứa, cảm nhận hai bàn
chân nhẹ đi ... dần dần, hết thấy
đau nhức nữa. Tôi tỉnh lại thì
không có ai ! Chỉ có đói ...
đói đến lả người. Khô nai hết,
nước hết. Chỉ có mùi tanh kinh khủng
của mủ chảy lênh láng trên sàn,
làm lợm giọng phát ói. Tôi nôn
ói xót cả ruột, vì có gì trong bụng
đâu mà ói. Một chút khô nai với
nước mưa, cũng khủng khiếp như mủ.
Hình như đó là lúc tôi ngất xỉu,
không còn biết gì nữa.
*
Chú Thạch Sao lay tôi dậy ! Hai chân
tôi đã bó thuốc, mùi lá thuốc
nồng nặc trong gian phòng nhỏ. Ánh lửa bập
bùng ... chú ấy đang nướng con vật
gì trên lửa, mùi thịt cháy như
người bị sét đánh. Chú cho tôi
ăn, rồi uống nước lá vắt gọi
là thuốc. Chú cũng làm như vậy. Chừng
tiếng đồng hồ sau, cả người tôi
nóng ran ... Mặt tôi phừng phừng nóng
như ngồi sát đống lửa nấu bánh
tét, bánh chưng. Khát. Khát nước
vô cùng ... Tôi uống không biết bao
nhiêu nước. Ngoài hiên lửa tàn,
màn đêm bao phủ, âm u. Tôi và
chú Thạch Sao qua đêm thứ hai nơi
này.
Ngày thứ ba cũng vẫn đắp thuốc
mới, nước lá vắt ra được bao
nhiêu thì uống. Khi màn đêm lăm le nuốt
chửng không gian, tôi đã khẩu phục
tâm phục "thuốc lá rừng". Người
tôi khỏe re như chưa hề bị gì.
Chân cẳng ngon lành như cầu thủ chuẩn
bị ra sân. Một sự kỳ diệu như thần
thoại. Lá rừng là thuốc mầu nhiệm-vô
song. Nhìn những vết kim châm dưới gan
bàn chân-tôi lại thầm cảm ơn
chú Không, chú Có. Tôi chỉ còn cảm
giác đói như bò bắt nợ. Chú
Thạch Sao săn được thỏ rừng và
làm lại món nướng kinh dị cũ. Qua
đêm thứ ba, tôi đã khỏe mạnh
như voi. Mang được đôi giày vào
chân mà lòng sung sướng như qua cơn
mê. Chúng tôi tìm đường về.
Tôi với chú Thạch Sao lại chặt lồ
ồ, đóng bè (chiếc bè chỉ cần
làm nổi hai người chứ không cần
bán lồ ồ, nên làm lẹ lắm. Chỉ
độ trăm cây là đủ.) Mọi việc
đâu vào đấy, chuẩn bị khởi
hành. Tôi cố ghi khắc trong tâm khảm
hình ảnh gốc cây tôi đã ngủ,
có cọng dây chiều ủ rũ trong mưa. Chiếc
trực thăng không xa gốc cây ấy, hôm
đầu tôi không thấy vì bị khuất
trong hàng vạn dây leo dại ở rừng.
Tôi quỳ lạy bái biệt chú Không,
chú Có. Nước mắt rưng rưng chảy,
không ngăn được. Một thứ tình cảm
mà đến giờ ... tôi vẫn không hiểu
được. Nó chua chát đến tận
cùng xương tủy. Nó là bằng chứng
của bất lực. Đau xót cả đời. Không
bao giờ tôi có được vô tư con
nít nữa.
Chuyến về đầy mạo hiểm của
tôi với chú Thạch Sao, bến bãi
không bóng người. Mưa dầm như vầy
thì ai ở ngoài bãi làm chi ? Còn chừng
hai trăm mét nữa đến cầu Phú Riềng,
chú Thạch Sao và tôi nhảy xuống suối,
bỏ bè. Nương theo dòng nước hung tợn
mà dạt vào bờ. Hai chú cháu mò
lên được quán rừng duy nhất ở
đây làm mọi người hú vía ! Mọi
người tưởng chúng tôi là mạ Ai
mà tin được chúng tôi còn sống
? Không ai biết những gì đã xảy ra
trong mấy ngày qua. Họ cho chúng tôi ăn
mì gói, uống trà nóng ...
Chú Thạch Sao nhờ cô Nhâm (chủ
quán) đốt cái lò than nhỏ để
dưới võng tôi nằm cho ấm đôi
chân. Chú ngồi uống rượu với những
người tò mò. Tôi ngủ một giấc
bình an sau mấy ngày thập tử nhất sinh.
Thức dậy, tôi trở về nhà. Chị
tôi đã đưa tôi lên bàn thờ
với nén nhang, bát cơm quý hiếm nơi
vùng kinh tế mới. Căn chòi tranh không bao
giờ đủ sáng-tôi cũng nhìn ra
được sự hoang mang của chị tôi.
Làm sao tôi có thể còn sống mà về
đây ? Tội nghiệp chị tôi. Một người
hiền lành bỗng cuộc đời trở nên
trắc trở từ khi lấy anh tôi. Sau ngày
30/04/75, anh tôi cũng về như một linh hồn
không còn gì để mất ... phất
phưởng. Anh chị tôi dắt díu nhau lên
vùng kinh tế mới này tạm lánh mặt
địa phương cho qua những chuyện cũ. Chị
tôi hoàn hồn mới nói được: Anh
tôi với chú Đông đã vào rừng
tìm tôi hai hôm nay. Họ đã về,
đang tìm thêm người giúp - đi nữa
...
Trong hoàn cảnh ngặt nghèo của mưa
rừng và cuộc sống thâm sơn cùng cốc,
bỗng mọi người trước đây
không là gì của nhau - bây giờ thân
thương lạ. Khi người ta không còn
gì để mất thì lòng mới mở ra
được ! Tôi sống và làm rừng tiếp
sau cơn mưa tưởng không bao giờ dứt. Hết
hè năm đó, tôi về lại Sài
Gòn để đi học. Anh chị tôi cũng về
Sài Gòn buôn bán chứ không sống nổi
với vùng kinh tế mới.
Hôm từ giã chú Thạch Sao, nơi
quán cô Nhâm, lần đầu đời
tôi uống chung rượu lạt. Tôi nói với
chú: "Không bao giờ tôi quên chú
Không, chú Có và chú Thạch Sao".
Tôi trở về trường học mới chán
làm sao. Chẳng có gì để học. Về
gia đình cũng buồn không kém, một
ít tiền tôi đem về được cho mẹ
cũng mau chóng tiêu tan vào sự đói
nghèo. Ai cũng nói tôi không còn quậy
phá như năm ngoái. Tôi cũng không buồn
kể ai nghe -sau một lần thập tử nhất sinh.
Giờ, tôi chỉ thích một mình-yên lặng
! Tôi mong cho đến hè để lên rừng
với chú Thạch Sao. Mong mòn mỏi lắm !
Rồi hè cũng đến. Tôi khăn
gói lên đường với tâm tư thầm
kín lạ. Tôi ưa lén nhìn mẹ
tôi như có thể con không về nữa.
Tôi nói với thằng bạn thân nhất
trong lớp học: "Nếu hết hè, không thấy
tao về, là tao đã đi lính". Nó
đưa tôi ra bến xe đò miền
Đông, hai đứa chia tay không hẹn ngày
tái ngộ như đưa Kinh Kha qua sông Dịch.
Tôi đem theo chai rượu quốc doanh
(là tất cả tiền tôi có và mua
được). Xe đò bỏ tôi xuống cầu
Phú Riềng, tôi đến quán cô
Nhâm tìm chú Thạch Sao. Cô Nhâm
nói chú Thạch Sao đã chết ! Tôi
bàng hoàng như chính mình đã chết.
Tôi tìm chú Đông, chú ấy cho
tôi biết: "Mùa nước cạn, chú Thạch
Sao đi ra suối rà cá bằng đầu đạn
105 ly, tháo ngòi nổ ... đốt khói la
đà trên mặt nước làm cho cá ngộp
nổi lên. Chú Thạch Sao bị sụp chân
xuống một lỗ sâu nào đó, trái
đạn bí hơi nổ." Trời ơi ! 105 ly
thì 105 người cũng chết gọn được.
Huống chi một mình chú Thạch Sao ăn trọn
trái. Tôi đau buồn đến tê tái
tâm can. Tôi nhờ cô Nhâm làm dùm
con gà xé trộn măng le với lá chanh.
Tôi nhờ chú Đông đưa tôi đến
nơi chú Thạch Sao mắc nạn. Tôi cúng
chú ấy: "Chú đem rượu, thịt
này đến nhậu với chú Không,
chú Có. Bây giờ không còn
chú-cháu không biết đường đến
thăm chú Không, chú Có."
Nhang tàn. Tôi trở về ngủ nhờ
nhà chú Đông một đêm. Sáng
hôm sau về lại Sài Gòn. Từ
đó, tôi không bao giờ trở lại
vùng đất ấy nữa.
*
Hơn ba mươi năm qua, tôi chưa bao giờ
quên ba người chú đã là thiên
cổ. Cuộc đời cứ đưa đẩy
tôi đi theo vòng quay nghiệt ngã của kiếp
nhân sinh, mười mấy năm nay lại còn
thêm nỗi lòng viễn xứ. Lương tâm
tôi có thật: Lòng thương kính
và tri ân người lính. Nhưng tri thức
tôi chưa bao giờ đủ để hiểu
được - dù đã là chuyện
quá khứ. Chú Không, chú Có là ai
? Thế giới vô hình hiện hữu hay chỉ
là tưởng tượng từ lòng yêu
thương ? Tôi không giải thích nổi: Ai
đưa tôi từ thân cây vào chiếc trực
thăng? Ai tặng tôi nhiều dấu kim châm
vào gan bàn chân để mủ có lối
thoát ra ngoài.
Bài hát mà chú Có đã
hát, tôi chưa bao giờ nghe suốt quãng
đời thơ ấu. Ký ức trẻ thơ,
tôi chỉ nhớ mấy chú Xây Dựng
Nông Thôn mặc đồ đen. Tối thứ bảy
hàng tuần, mấy chú chở bình điện
đến sân Hội Đồng Xã, có
cái tivi trên bệ xi-măng xây cao như
đài liệt sĩ. Bao giờ mấy chú
Xây dựng nông thôn cũng hào phóng
cho bà con coi tới ... một là hết bình
điện, hai là hết chương trình
trên tivi. Tôi chỉ nhớ tuồng cải
lương: "Tướng cướp Bạch Hải
Đường". Và lờ mờ nhớ Hùng
Cường-Mai Lệ Huyền hát bài: Túp lều
lý tưởng của anh và của em... phông
là cái lều tranh có cửa sổ hình
trái tim.
Tôi chưa bao giờ biết bài hát: Ôi những con chim
đêm ... Tôi thật
sự có thể biết được một
bài hát từ người đã khuất hay
sao ?
Bao nhiêu năm nay coi ca nhạc không sót một
chương trình nào của Thúy Nga và
Asia, cũng không nghe ai hát bài hát
đó. Bài hát đó có hay không
trong dòng nhạc Việt Nam thời chiến loạn
? Hơn ba mươi năm sau, tôi không còn bầu
nhiệt huyết phục thù như tuổi mới lớn,
nhưng sự già không đủ để hiểu
những điều huyền bí. Tôi chỉ
còn lại tấm lòng không bao giờ thay
đổi với những người đã
thành thiên cổ. Mong cho các chú được
siêu thoát qua một kiếp đọa đầy.
PHAN
(Bai Chuyen)