CHIM BAY VỀ BIỂN
(Phạm Tín An Ninh)
Một mai chim bỏ bay về biển
Ta đứng một ḿnh ngó nhánh sông
Ta khóc nh́n theo gịng nước chảy
Nghe trăm ngọn sóng vỗ trong ḷng
(Sương Mai)
Một cánh chim vừa bay ra biển, nhỏ
dần rồi mất hút giữa mênh mông. Tôi mơ hồ
như h́nh ảnh của chính ḿnh đang t́m về quê cũ.
H́nh dung đến thành phố Nha Trang xưa, nơi mà nếu
không có biển sẽ không c̣n lăng mạn để người
ta nhắc nhớ, đắm say, cũng có thể làm nhẹ
đi ít nhiều tiếc nuối của những người
Nha Trang xa xứ. Bờ biển cát từng chôn giấu những
hang động tuổi thơ và ôm ấp dấu tích của
bao cuộc t́nh thơ mộng, nước biển đă cuốn
trôi đi, nhưng không thể xóa mất trong kư ức của
nhiều cặp t́nh nhân mà bây giờ tóc ai cũng bạc. Âm
thanh những ngọn sóng ŕ rào đă dệt nên những bài
thơ, những bản t́nh ca từng làm khuấy động
bao trái tim người, mà dư âm dường như vẫn
c̣n vang vọng măi.
Nha Trang đẹp đẽ, hiền ḥa và
thơ mộng đó bây giờ đă không c̣n nữa. Đă
trở thành một Nha Trang xa lạ, như thuộc về
ai đó chứ không phải của ḿnh. Đó là cảm nhận
xót xa của đám bạn bè tôi, không chỉ người
đă rời xa mà cả những người vẫn c̣n ở
lại với Nha Trang, sống với Nha Trang gần trọn
một đời.
Nhà văn Nguyễn xuân Hoàng, một đồng
môn huynh trưởng cùng trường Vơ Tánh, sau 15 năm trở
lại Nha Trang, đă viết:
"Mười lăm năm sau ngày ra khỏi
nước, tôi quay trở về như một người
xa lạ. Thành phố tôi đă ở thời tuổi nhỏ
như nhỏ lại, những con đường quen
đă xa lạ, tiếng sóng biển vọng lại âm thanh
đều đặn kỳ quái của một vùng biển
chết nào. Băi cát không c̣n cái màu của thời tôi mới lớn
và rừng dương đă bi xóa khỏi bản đồ
trái tim.
.. Tôi trở về nh́n lại biển
xưa thấy không c̣n lại chút dấu vết nào của
những ngày trốn học, những buổi trưa hạnh
phúc nằm trên băi cát, gối đầu lên hai cánh tay, đấp
mặt bằng cành lá dừa, ngủ một giấc chờ
đến giờ tan học lủi thủi trở về"
(trích trong "Nhà Từ Đường" tháng 5.2013- trên
VOA)
Một chị bạn, hiện định
cư ở thành phố Seattle bên Mỹ. Năm 1954 là một
cô bé 7 tuổi, di cư theo gia đ́nh từ Hà nội vào Sài
G̣n. Ông bố là quân nhân, được bổ nhậm ra một
đơn vị ở Nha Trang. Cô rất vui mừng
được theo cha ra sống ở thành phố biển.
Thi đậu vào lớp đệ thất trường Vơ
Tánh. Nhưng chỉ mấy năm sau lại bịn rịn
bỏ lại bạn bè, theo bước chân cha ra tận Quảng
Nam, rồi Huế. Sau này trở thành cô giáo trung học, lên
cao nguyên sống với phố núi và đám học tṛ
Kinh-Thượng, giữa chiến tranh vây bủa, may mắn
sống c̣n trong lần di tản kinh hoàng trên con đường
Tỉnh Lộ 7B. Vậy mà một thời tuổi thơ
ngắn ngủi ở Nha Trang lại là mảng quá khứ
đẹp đẽ nhất. Trong kư ức và cả trong
trái tim, chị đă dành ngăn lớn nhất cho Nha Trang. Sang
Mỹ định cư khá lâu, chị háo hức trở về
thăm Nha Trang, để rồi "chỉ thấy ḷng buồn
rười rượi, bởi đang đi trên đất
Nha Trang mà cảm giác như ḿnh là kẻ lạ, không t́m thấy
bóng dáng Nha Trang của ḿnh ngày trước".
Hai người bạn
học cùng lớp với tôi, sinh ra ở Huế, nhưng lớn
lên và gần trọn một đời sống với Nha
Trang. Trước 75 đều là thầy, cô giáo trung học,
giờ chỉ âm thầm nh́n đời từng ngày trôi
đi vô vị, viết những bài thơ buồn trước
bao điều đổi thay ngao ngán. Họ ở lại với
Nha Trang cho đến hôm nay, sau bao nhiêu lần tưởng
chừng Nha Trang đă hất hủi, đuổi xô, không
c̣n chỗ cho họ dung thân. Hai người bạn của
tôi rất chí t́nh với bạn, sống chết với
quê, vậy mà đă bao lần than thở: :Không ra đi
như mi, tớ ở lại với Nha Trang mà vẫn không
t́m ra Nha Trang của bọn ḿnh ngày trước! Không có ǵ
đau hơn là sống trên chính đất nước ḿnh
mà cứ măi hoài vọng một quê hương!". Và họ
chỉ c̣n gặp lại Nha Trang trong kư ức, trong những
bài thơ họ viết về một thời quá khứ,
nghe chừng đă rất xa xưa như trong tiền kiếp:
chiều quá chén nửa đêm tỉnh giấc
mảnh trăng khuya ṿi vơi chờ ai
trong cỏ ướt dế buồn
thao thức
giữa quê nhà sao măi hoài hương.
.. ..
Từ buổi ấy đồng thu cỏ
biếc
nghe âm u gió tạt
mùa xa
người
đứng giữa trời không - luyến tiếc
nghĩ ngợi
ǵ tóc rủ sương pha.
.. ..
Bao năm
t́m lại con đường
nẻo xanh
ngần ngại nghe chừng rất xa
chiều thu
xứ ấy mù sa
t́nh thu thuở
ấy cũng là chiêm bao.
(đ.ư.v)
Đám học tṛ bọn tôi thưở
ấy, giờ tóc ai cũng bạc. Sau cuộc thăng trầm
quá lớn, nhiều khi tưởng ḿnh giờ là một
người nào khác. Dù c̣n sống ở quê nhà hay lưu lạc
tha phương, ai cũng đă phải trải qua một
cuộc đổi đời bi thảm. Vết
thương lớn, nhỏ trong ḷng dường như vẫn
chưa lành.
Lần trở lại Nha Trang duy nhất
để t́m bốc mộ thân phụ bên ngoài một trại
tù "cải tạo", cách đây đúng mười
năm, tôi đi một ḿnh trên những con đường
xưa, nghe tiếng sóng vỗ xa xa mà trong ḷng chỉ c̣n dội
lại những dư âm ngày cũ.
Tôi may mắn gặp lại vài ba
người bạn học. Nhưng dường như tất
cả đều nở nụ cười không trọn. Vui
đó rồi buồn đó, bởi mỗi người một
số kiếp long đong.
Một thằng bạn rất thân, cùng
học ba năm cuối ở trường Vơ Tánh. To con,
đẹp trai và học giỏi. Sau này cũng là bạn
lính. Ở tù hơn bảy năm nên bạn bè ai cũng nghĩ
là nó đă đi diện HO và đang nổi trôi nơi nào
trên nước Mỹ, không ngờ tôi c̣n gặp lại nó ở
Nha Trang. Mặc dù bây giờ nó không được phép ở
lại trong ngôi nhà và thành phố Nha Trang xưa của nó.
Sau sáu tháng vào tù,
căn nhà nhỏ của nó ở Nha Trang bị tịch thu,
cô vợ "Bắc Kỳ nho nhỏ" mang ba đứa
con (mà đứa lớn nhất mới vừa năm tuổi)
giao cho bà nội ở trên Thành, Diên Khánh, rồi sang sông .. về
đâu đó, không bao giờ trở lại. Bà nội th́
già, mấy đứa nhỏ bấu víu vào ông chú, vừa tốt
nghiệp kỹ sư Nông Lâm Súc, nhưng bởi có ông anh là
"ngụy đang cải tạo", nên đi làm phụ
hồ cho một ông thợ nề là bác họ. Trong lúc phụ
hồ sửa sang một bệnh viện, anh làm quen
được một chị đầu bếp. Không biết
tài ăn nói thế nào mà anh làm cô động ḷng trắc ẩn,
thương cảm hoàn cảnh mấy đứa cháu dại
không mẹ không cha. Cô sẵn sàng làm mẹ nuôi. Với tất
cả tiền bạc và tấm ḷng, đă cưu mang ba
đứa bé không thua ǵ một người mẹ. Ba đứa
nhỏ lớn lên cứ tưởng cô là mẹ. Cái t́nh mẫu
tử này sao mà hiếm hoi và bi tráng quá. Th́ ra trong cái thời
nhá nhem t́nh nghĩa ấy vẫn có những tấm ḷng c̣n
hơn cả những chữ Từ Bi viết trong mấy
ngôi chùa.
Bảy năm sau,
thằng bạn tôi được thả về, cúi ḿnh
trước người con gái ân nhân để xin nói một
lời tạ ơn. Cô nắm tay ngăn lại. Đúng
giây phút ấy, bốn mắt nh́n nhau và cùng rơi lệ. Họ
ôm nhau, yêu nhau rồi lấy nhau. Hôm gặp chị, tôi ṭ ṃ
hỏi lư do nào chị lại yêu và lấy thằng bạn
khốn cùng của tôi trong lúc chị c̣n con gái. Chị bảo
v́ không thể rời xa ba đứa nhỏ mà chị xem
như con ruột của ḿnh. Chính cái t́nh thương và sự
gắn bó ấy mà chị trở thành vợ của ba nó.
C̣n tôi th́ lại mơ màng suy ngẫm đến hai chữ
duyên nợ của đất trời. Sau này chị làm
đầu bếp cho một nhà hàng ở bờ biển Nha
Trang. Thằng bạn tôi và mấy đứa con vẫn sống
trên Thành, v́ với cái lư lịch đen, không thể xin
được cái hộ khẩu trở về thành phố
cũ. C̣n chị vợ th́ tiếc cái hộ khẩu ở
thành phố, mà không muốn chuyển lên vùng quê Diên Khánh.
Cũng chính v́ Nha
Trang đă tạo nên cái hộ khẩu mỗi người
mỗi nơi ấy, mà khi thằng bạn của tôi
được gọi phỏng vấn xin đi theo diện
HO, bị phái đoàn Mỹ từ chối, trả lại hồ
sơ và sỉ vả một trận, v́ nghĩ chị vợ
tốt bụng này chỉ là vợ giả, trả tiền
cho nó để được bỏ nước ra đi.
Chuyện t́nh ngay mà lư gian ấy cũng đă làm vợ chồng
tốn kém và khốn khổ một thời. Sau mấy lần
khiếu nại, cái ân sủng cuối cùng là: chỉ có
người cha và ba đứa con được ra đi
vào đợt cuối HO. C̣n chị vợ sẽ vĩnh viễn
không bao giờ được bước chân đến Mỹ.
Bạn tôi quyết
định ở lại với người vợ ân t́nh,
mà anh coi như ông trời đă sai xuống dương trần
này để gánh vác cho mấy cha con.
Bây giờ ba đứa
con đă là người lớn. Thằng bạn tôi ở
nhà chăm sóc ngôi từ đường, nuôi mấy con heo
và nấu cơm cho con cho vợ. Chị ấy vẫn làm ở
khách sạn dưới Nha Trang, tối lại chạy về
Diên Khánh!
Hôm đứa con
gái lớn lấy chồng, chị khuyên măi thằng bạn
tôi mới báo tin cho bà mẹ ruột bạc t́nh, bây giờ
đang lấy một ông chồng người Thụy Sĩ.
Bà ấy cũng vác bộ mặt đầy son phấn trở
về. Nhưng đứa con gái chỉ cho bà đến nhà
hàng dự tiệc mà từ chối sự hiện diện
của bà trong hôn lễ. Con bé bảo rằng, bà chỉ là một
cái máy đẻ ra tôi, nhưng mẹ tôi chính là vợ của
ba tôi bây giờ.
Tôi rót một ly
rượu mừng cho cả cái vô phúc lẫn cái diễm
phúc của thằng bạn cũ, nhưng rót đến hai
ly để mời vợ nó. Một ly mừng và một ly
để nói hộ giùm tôi ḷng biết ơn và ngưỡng
mộ.
Tôi quay sang bảo
thằng bạn:
- Dường
như chính phủ Mỹ vừa cho mở lại diện
HO, mày thử nộp đơn lại xem sao.
Nó xua tay:
- Tao chẳng cần
đi đâu nữa, v́ ở đâu có bà vợ tao đây là ở
đó có thiên đường.
Tôi đùa:
- Mày nói c̣n hay
hơn mấy ông linh mục trong nhà thờ.
Tôi choàng tay ôm vợ
chồng nó mà nước mắt trào ra. Tôi nghĩ, nó vẫn
c̣n tác phong của một thằng lính. Khi chia tay, nó ôm vai tôi
buồn bă:
- Mày thấy không,
cái thành phố Nha Trang mà tao sống cả một thời
đẹp đẽ, giờ cũng phụ bạc tao, gây
cho gia đ́nh tao bao khốn khó! Từ ngày thuộc về bọn
CS, Nha Trang với tao là một vùng đất xấu, lạ
lẫm. Mày c̣n nhớ tác phẩm tiếng Pháp "Le domaine
maudit" của ông thầy Cung Giũ Nguyên?
Tôi thực sự
chưa hiểu, chỉ thấy mơ hồ có một
điều ǵ đó không ổn trong cách suy tư của nó.
Nhưng tôi cảm được nỗi đau của nó.
Một cô bạn học
từ những năm đệ ngũ, đệ tứ
bên trường Văn Hóa. Một lần sang Mỹ thăm
cô con gái là sư cô ở một ngôi chùa vùng Los Angeles, bất
ngờ đọc được bài viết của tôi
trong Đặc San Liên trường Vơ Tánh & Nữ Trung Học
Nha Trang, trong đó tôi có nhắc đến tên nàng, rồi lần
ṃ t́m ra tông tích của tôi. Ngày xưa là một cô bé khá xinh và
học giỏi. Sau này có thời làm phóng viên chiến trường.
Ông chồng gốc Vơ Bị Đà Lạt, chết một
tháng trước ngày có chuyến bay theo diện HO, nên nàng và
hai cô con gái không được đến Mỹ. Dắt
con lưu lạc khắp nơi, với một số vốn
liếng của mẹ cha để lại. Nàng bảo nhiều
lúc nhớ Nha Trang lắm, thử quay về, nhưng rồi
thấy lạc lơng, mọi thứ chỉ mới đây
thôi mà sao giờ trở thành xa lạ quá. Cuối cùng, mẹ
con quyết định mua một căn nhà bên cạnh Quan
Âm Tự ở Sài G̣n xa lạ. Cô con gái út vừa học
đại học vừa tu học trong chùa. C̣n nàng th́ tu tại
gia và cũng là một nhà thơ. Hôm ngồi trên máy bay trở
lại Bắc Âu, tôi đọc hết hai tập thơ của
nàng kư tặng lúc chia tay. Có nhiều bài tiếc nhớ Nha
Trang xưa. Nha Trang của nàng và của đám bọn tôi.
Nàng làm thơ Đường thật hay và cảm động.
Tôi nghĩ, nếu Đức Phật mà đọc
được thơ của nàng chắc cũng phải
rơi nước mắt xuống ṭa sen.
Một thằng bạn
khác cùng học trường Vơ Tánh. Sau này gặp nhau trong
cùng một đơn vị lính. Đánh giặc rất ĺ,
nhưng luôn bị "đ́" bởi bản tính ngang
tàng không nể mặt cả cấp chỉ huy. Trong khi
đang ở tù ngoài Bắc, chị vợ ở nhà chán
chường cuộc sống, lội xuống biển Nha
Trang tự vẫn, để lại một thằng con
trai năm tuổi. Nơi người ta t́m ra thi thể của
chị, chính là bờ cát dấu tích yêu đương hẹn
ḥ, thưở hai người mới quen nhau.
Ra tù, không thể sống
trên thành phố quê hương một thời đẹp
đẽ giờ chỉ c̣n là mảnh đất thê
lương tang tóc, mỗi ngày phải ám ảnh bởi cái
chết đau đớn của người vợ trẻ
đẹp dấu yêu, nó dắt mẹ già và đứa con
thơ vượt biển. Sang Mỹ, nhờ mẹ
chăm sóc cho đứa con, nó vừa đi làm vừa
đi học. Được bạn bè khen, nó bảo: "Chẳng phải tao siêng năng
chăm chỉ ǵ đâu, nhưng v́ không muốn c̣n có chút th́
giờ rảnh rang nào để nghĩ ngợi mông lung, hồi
tưởng về một quá khứ đau ḷng". Nó
chưa bao giờ về lại Nha Trang. Bạn bè ai cũng
phục khi nó lấy được bằng Cao học Tâm
Lư (Master of Psychology) và có công việc làm lương cao, ổn
định. Trong đám bạn bè bất hạnh, nó là đứa
thành công nhất. Bỗng một ngày được tin nó chết.
Chết đau đớn. Thuê pḥng trong một khách sạn ở
gần nhà, rồi đến đó dùng súng bắn vào đầu
ḿnh tự sát, để lại mấy lá thư. Tôi nhận
được lá thư nó viết cho tôi, được cảnh
sát giao lại, nét chữ đẹp đẽ ngay ngắn,
chứng tỏ nó rất b́nh tĩnh trước khi tự
kết liễu đời ḿnh.
"Xin lỗi mày,
tao đi trước mà không kịp chia tay với mày. Bọn
ḿnh rồi sẽ như những con chim đă đến
lúc phải bay về với biển. Mày đừng nghĩ
là tao buồn. Tao vui lắm đó. Thôi th́ tao đi trước
để dọn chỗ cho bọn mày, đám bạn bè thân
thiết nhất của tao. Chỉ có một điều
tao tiếc và ân hận là đă không được chết
ở chiến trường như bọn thằng Lâm, thằng
Bê, thằng Pho, anh Tài, Đức".
Đọc xong thấy
ḷng đau đớn như có nhiều vết chém, vậy
mà không biết v́ sao tôi không khóc được.
Những người
tiễn đưa nó hôm ấy, hầu hết là bạn bè
cùng đơn vị xưa, và một số bạn học
cùng trường Vơ Tánh Nha Trang.
Năm ngoái, một
chị bạn cùng trường Vơ Tánh, cùng học Ban C sau
tôi một năm, định cư ở Canada, cũng
đă ra đi, sau hơn hai năm chống chọi với
căn bệnh ung thư. Tôi và có lẽ hầu hết bạn
bè Vơ Tánh rất mến phục cô bạn có tấm ḷng và rất
khí khái này từ những năm 1962-1963. Mọi người
đă ưu ái tặng chị biệt danh "Nữ hoàng xuống
đường". Luôn sống hết ḷng với bạn
bè và quê hương đất nước. Quyết liệt,
kiên cường trước những bất công, bạo lực.
Những ngày lâm bệnh, sớm ngộ Đạo Đất
Trời, chị buông bỏ tha thứ hết những hờn
giận ân oán riêng tư. Một thời gian trước khi
mất, chị vẫn liên lạc trao đổi với tôi
về những kỷ niệm Nha Trang, về t́nh h́nh chính trị
ở quê nhà với nhiều hy vọng, và tiếc là không thể
sống lâu hơn để chứng kiến ngày chế
độ Cộng sản man rợ độc tài cáo chung
trên quê hương. Chị ra đi, để lại bao
thương tiếc cho gia đ́nh, người thân và tất
cả bạn bè. Chị mong muốn và dặn ḍ, sau khi chị
mất xin gia đ́nh hỏa thiêu và mang tro cốt của chị
rải ở ngoài khơi Thái B́nh Dương để
hương linh của chị theo biển trôi về quê nhà,
bên kia bờ đại dương, ở đó có băi biển
Nha Trang thơ mộng, nơi chị sống cả một
thời tuổi thơ và lớn lên với những vui buồn,
vinh nhục.Tôi h́nh dung đây không phải là cánh hải âu mà
là một cánh đại bàng hùng vĩ, đẹp đẽ
vừa bay về với biển.
Cuối tháng 2/2013,
trước khi trở về lại Bắc Âu, tôi bất
ngờ nhận được hung tin: hiền thê của một
anh bạn qua đời v́ một chứng ung thư khó chữa.
Chị là cựu nữ sinh Nữ Trung Học Nha Trang, và sau
này là một người đàn bà tuyệt vời. Gia
đ́nh anh chị là một đại gia đ́nh quân đội.
Các con của chị đều là sĩ quan trong quân đội
Hoa Kỳ, một cô con gái tốt nghiệp từ quân
trường nổi tiếng West Point. Sau này đều trở
thành những bác sĩ, luật sư. Phu quân của chị
là một người bạn, người đàn anh của
tôi ở trường Vơ Tánh cũng như trong quân đội
ngày trước. Con nhà giàu, đẹp trai và tính t́nh hào hoa
vui tính. Là một sĩ quan trẻ đầy phong độ
khi tốt nghiệp từ trường Vơ Bị Đà Lạt,
đối tượng của nhiều cô con gái Nha Trang thuở
ấy. Ngày anh quyết định làm đám cưới với
chị, chắc chắn có nhiều cô tốn khá nhiều
nước mắt. Cuộc t́nh đẹp. Một gia
đ́nh thành công, hạnh phúc. Chị luôn bặt thiệp vui
vẻ, hết ḷng với bạn bè, đồng môn, đồng
đội cũ của chồng. Nụ cười lúc nào
cũng nở trên môi. Ai cũng quí mến chị. Vậy mà
đùng một cái, chị ra đi, đột ngột chẳng
ai ngờ.
Hôm dự dám tang chị,
rất nhiều bạn bè cùng khóa Vơ Bị với anh và
đồng môn thân quen thời Vơ Tánh & Nữ Trung Học
Nha Trang, từ mọi nơi về tiễn biệt. Trong
nhà nguyện không c̣n chỗ đứng. Anh chồng ốm
nhom, tiều tụy. Khi nói lời chia buồn, tôi ôm đôi
vai gầy g̣ mà thấy thương anh, tội nghiệp.
Khuôn mặt hốc hác, đôi mắt quầng thâm. Tôi nghĩ
là anh đă khóc thầm nhiều lắm, ở cái tuổi
đă trải qua bao thăng trầm mất mát, tưởng
như không c̣n nước mắt.
Khi nh́n quan tài chị
được đưa vào ḷ thiêu. Cửa ḷ đóng lại.
Tôi tưởng tượng, lại thêm một cánh chim
đẹp đẽ nữa vừa bay về với biển.
Tôi nghĩ rồi
sẽ có môt ngày, thế hệ bọn tôi, những cô cậu
học tṛ rời trường Vơ Tánh vào những năm
đầu thập niên 60, bây giờ đều đă trên tuổi
70, sẽ lần lượt ra đi. Tất cả cuối
cùng rồi cũng là những cánh chim bay về với biển.
Bỗng ḷng tôi chợt
thoáng lên một chút băn khoăn. Những cánh chim di xứ
ấy sẽ bay trở về đâu, khi Nha Trang ngày xưa
của họ đă thực sự không c̣n. Thành phố
đă cho họ một thời tuổi thơ đẹp
đẽ hoa mộng, nhưng cũng đă để lại
trong ḷng họ quá nhiều đớn đau, mất mát sau
cuộc đổi đời. Những hang động tuổi
thơ và dấu tích của những cuộc t́nh ngày xưa,
tất cả giờ chỉ c̣n là cổ tích. Tôi nhớ lời
thằng bạn c̣n ở lại Nha Trang, nhớ tới thầy
tôi, nhà văn Cung Giũ Nguyên và tác phẩm Le Domaine Maudit viết
từ năm 1961, như là một tiên tri của Thầy.
PHẠM TÍN AN NINH
(Huôn Trinh sưu tầm và chuyển)