CHUYỆN
MỘT NGƯỜI BẠN HỌC
(Phạm Tín An-Ninh)
Trước khi
vào đệ tam Võ Tánh, hai thằng cùng
học một lớp bên trường Văn Hóa.
Năm đệ ngũ, niên học khai giảng hơn
hai tuần thì cô Hương, giám thị, dẫn
một người vào lớp. Mới đầu, từ
cô Tùng Linh, giáo sư hướng dẫn,
đến học trò, không ai nghĩ là anh ta
sẽ là học sinh vào lớp đệ ngũ
này. Người cao lớn, vạm vỡ, đẹp
trai, mái tóc bồng bềnh, mặc một
cái áo sơ mi sọc đậm, ngắn tay,
xăn cao, quần sans-pli bó ống với cái nịt
to bản và đôi giày da bóng đi
kêu lộp cộp. Lại còn cái kính
đen dắt trên dây nịt nữa chứ. Một
cuốn tập cuốn tròn trong túi sau.
Cả lớp
tròn mắt ngạc nhiên khi nghe cô Hương,
giới thiệu anh ta là học trò mới, từ
xa đến. Cái tên nghe cũng lạ: Lâm Ni.
(Sau này mới biết anh ta gốc Tàu Chợ Lớn,
cha Tàu mẹ Việt. Gia đình giàu có.
Cha anh làm chủ một công ty xuất nhập cảng.
Vì không kiểm soát được anh,
nên gởi anh ra Nha Trang ở với ông cậu,
là chỉ huy phó quân trường Đồng
Đế. Ba má anh tin tưởng ông cậu
nhà binh này sẽ đưa thằng con cưng của
mình đi vào nề nếp. Cùng với
không khí mát mẻ, hiền hòa của
thành phố biển này sẽ làm nó hiền
lành ngoan ngoãn hơn).
Cô Tùng
Linh chỉ cho Lâm Ni vào ngồi chung bàn với
tôi ở phía sau. Anh chào tôi bằng
cái rờ đầu rất kẻ cả. Tuần
đầu anh im lặng, ít nói chuyện với
ai. Mà có lẽ cũng chẳng có ai muốn
làm quen với anh ta, ngoại trừ Trần Bá
Hòa, người vui tính mà nghịch ngợm
nhất lớp. Nhưng chỉ một tuần lễ sau
là không khí cả lớp thay đổi hẳn.
Mấy nàng nữ sinh ngồi phía trước
liên tục bị bắn giây thun từ phía
sau lưng, thi nhau quay ra phía bàn tôi chửi rủa.
Có lần cô Linh đang viết trên bảng
đen bị lạc đạn, cả lớp phải
nín thở. Một lần khi thầy Nguyễn Đức
Nhơn đang gọi điểm danh, thình lình cả
lớp như chợ vỡ, khi mấy người đẹp
phát hiện một đám chuột con đỏ
hỏn nằm dưới hộc bàn. Ai cũng biết
tôi là thằng gốc nhà quê, hiền
lành. Nhưng vì ngồi chung bàn với
Lâm Ni nên "có chửi
cùng chia, có cười cùng hưởng".
Nói vậy chứ chưa có bà chị
nào quay xuống bàn tôi để nở nửa
nụ cười, mà chỉ toàn là những
cái liếc sắc như dao, và tiếng rủa
lùng bùng trong miệng chưa kịp phát ra
thành tiếng. Tôi bực mình anh ta nhưng
không dám phản ứng.
Có lần
tôi nhìn anh ta tỏ ra bực dọc, tôi liền
bị một cái cú đầu. Dưới mắt
anh, lúc nào tôi cũng là thằng
nhóc con. Nghĩ thân phận nhược tiểu
nên tôi đành im lặng chịu đựng
bên cạnh một đại cường. Nhưng tới
một ngày, chiến tranh cũng phải bùng nổ,
khi anh ta mượn rồi làm mất luôn cuốn
vở "kiểu mẫu" (mà sau khi ở trường
về tôi phải ngồi hằng giờ cặm cụi
viết lại, uốn nắn từng chữ bằng nhiều
thứ màu mực), tôi đã ném vào
người anh tất cả mấy cuốn sách
mà tôi có trong tay, giữa đám học
trò trong lớp. Kỳ lạ, lần này anh lại
cười hiền khô, ôm tôi và bảo
"xin lỗi toa nghe! " Đã thế ngày
hôm sau anh còn mang cho tôi một bịch mấy
trái thanh long. Từ hôm đó hai thằng
xích lại gần nhau hơn một chút.
Cả trường
biết anh, và có lẽ chẳng có ai ưa
anh - tôi đoán thế - vì anh chạy một
chiếc xe gắn máy hiệu Gobel màu đen mới
toanh, trên bình xăng có vẽ hình con
ó xòe đôi cánh, cái ghi-đông
thật dài, ống pô được tháo bỏ
phần hãm thanh nên nổ inh ỏi. Nghe nói tối
nào anh cũng đi học võ ở võ
đường của thầy Trọng Đãi.
Có lần chính anh kể với đám tụi
tôi, anh vào Judo Club để học lấy đai
đen thì lại gặp thầy Trần Thanh Lý,
dạy toán, cũng đang học trong đó, anh
bèn rút lui. Khi ấy thầy Lý còn trẻ,
nhưng anh nể thầy lắm. Mặc dù thầy
Lý chưa hề phạt anh, bởi trong tất cả
các môn học, môn toán và anh văn
là anh giỏi nhất. Có lần thầy Lý
còn gọi đùa anh là Lâm Bưu.
Lúc ấy nhiều thằng trong đám tụi
tôi chưa biết Lâm Bưu là gã trời
đất nào, cũng cười theo. Nghe Lâm Ni kể
là ông già của anh ta có cái mũi rất
thính trong thương trường. Ông tin chắc
là Mỹ thế nào cũng đổ quân
vào Việt Nam, nên mướn thầy dạy
kèm anh văn cho con mình từ năm Lâm Ni mới
vào đệ thất. Còn toán là nhờ
cái thông minh và lanh lợi mà trời
đã ban cho anh ta để bù vào mấy
cái tật khác.
Lâu lâu, bọn
tôi nghe Trần Bá Hòa thông báo là
Lâm Ni hẹn đấu "pạc-co" với
băng Lò Heo, băng thằng Điền, hay băng
thằng Liên nào đó ở Xóm Mới.
Mấy lần đám tụi tôi cũng tò
mò theo Trần Bá Hòa đi xem, mới biết
Lâm Ni võ nghệ cao cường mà còn
có tinh thần võ sĩ đạo kiểu Nhật
Bản nữa. Lúc nào cũng nhường cho
đối thủ tấn công trước, và khi
đối thủ ngã xuống, anh không thèm tấn
công, mà còn đỡ đứng dậy. Trong
khi những tay này đã từng chơi xấu
anh sát ván bao lần trước.
Anh ở nhà
ông cậu ruột, một biệt thự trên
đường Yersin, nhưng bạn bè thường
thấy anh chở đào chạy vòng vòng
ngoài đường Duy Tân, bờ biển.
Có khi còn thấy chiếc xe Gobel của anh dựng
cả ngày trước Bar Thu Thủy ở đường
Hoàng Tử Cảnh.
Sang năm đệ
tứ, không hiểu là vì mọi người
đã quá quen cảnh cũ người xưa,
hay là chính anh ta thay đổi, tự dưng "lòng chợt từ bi bất
ngờ ", không thèm phá phách nữa,
nên một số bắt đầu làm thân với
anh. Mấy bà chằng lúc trước bây giờ
cũng có nàng đã cười nửa miệng
với anh ta. Tôi bây giờ lại là thằng
thân nhất với Lâm Ni. Những ngày nghỉ
cuối tuần hay ngày lễ, anh đến nhà
trọ chở tôi lên Phú Vinh, thăm khu vườn
nuôi gà của anh Khanh, trưởng lớp. Khi ấy
anh Khanh đã có vợ hai con. Có lần anh ta
còn dám lấy xe jeep của ông cậu tới
chở bọn tôi đi lên Thành thăm cô
bạn Tuyết Phượng ở bên kia cầu
Phú Lộc, nhưng mới đến Mã Vòng
bị quân cảnh chặn lại hỏi giấy. Cả
đám phải vào ngồi trong đồn để
chờ ông cậu của Lâm Ni cho người
đến nhận xe và nhận người luôn.
Có lẽ
tôi có duyên nợ gì với Lâm Ni.
Ngày thi trung học đệ nhất cấp, vì
tên cùng vần N, nên tôi lại bị xếp
ngồi bên cạnh anh ta. Tí nữa thì
tôi khốn khổ. Môn toán và anh văn,
không cần nháp nhiếc, anh ta làm một
cái vèo, nộp bài ra trước nhất.
Nhưng mấy môn khác, tôi làm chưa
xong, thì anh thò tay qua chộp. Chút nữa
là ông giám thị bắt được,
tôi hú vía. Kỳ thi ấy cả hai thằng
đều đậu.
Từ hôm ấy,
anh ta càng thân với tôi hơn. Cứ vài
ngày là chạy xe lại nhà tôi, chở
tôi đi xuống quán số 1 duới bờ biển
ăn bò bảy món, đi Cầu Đá
ăn phở gà trước khi tôi về quê
nghỉ hè.
Quê tôi ở
ngoài Vạn Giã, vào Nha Trang tôi ở trọ
nhà ông chú, một hiệu buôn, trước
ở đường Độc Lập, bên rạp
ci-né Moderne của ông Bác Ái, sau chuyển
về đầu đường QL 1 trước Ty
Thông Tin. Chú thím tôi hơi nghiêm khắc,
nên không muốn bạn bè tôi lui tới
nhiều. Hơn nữa ông bà chỉ có một
đứa con gái rượu, xinh gái, gọi
tôi bằng anh nhưng lớn hơn tôi hai tuổi
và học trên tôi một lớp, bên
trường Lê Quí Đôn, nên ông
bà cũng muốn "kín cổng cao tường"
một chút. Lần đầu tiên Lâm Ni tới
tìm tôi, ông bà nhìn anh ta từ
trên xuống dưới, rồi bảo là tôi
không có ở nhà. Thực ra lúc ấy
tôi đang ngồi phía trong phòng khách. Thấy
Lâm Ni tới tôi định chạy ra, nhưng nghe
ông bà bảo vậy tôi im luôn. Sau này
tôi dặn Lâm Ni cứ dựng cái xe gắn
máy phía trước ngồi chờ, thấy chiếc
xe là tôi chạy ra.
Về quê nghỉ
hè chưa tròn một tháng, thì chú
tôi nhắn ba tôi đưa tôi vào Nha Trang
gặp ông có chuyện gấp. Vào đến
nơi, vừa bước vào nhà tôi mới
tá hỏa. Ông chú hò hét chửi
tôi một trận xối xả, rồi bảo ba
tôi tìm một chỗ khác cho tôi ở sau
mùa hè.
Không biết
tài tán gái thế nào mà chưa
đầy một tháng Lâm Ni đã cua
được cô con gái cưng của ông
chú tôi, mà tôi chẳng hề hay biết.
Tôi bực anh ta nhưng cũng phục anh ta sát
đất. Mà cũng xui cho anh - phải nói xui cho
chính tôi mới đúng - Ông chú
tôi là dân Nha Trang chính hiệu nhưng
chưa hề biết nước biển Nha Trang ngọt mặn
ra sao. Tôi nghĩ có lẽ cái lý do
chính là ông không muốn cho bất cứ
ai nhìn thấy cái bụng phệ hơi quá
khổ của ông. Vậy mà hôm đó,
có mấy ngưới bạn từ Sài-Gòn
ra bàn chuyện làm ăn. Nể tình, ông
mới chiều khách đưa họ đi biển tắm.
Bất ngờ khi bước vào Quán số 3
bên bờ biển thì ông thấymột cặp
tình nhân đang ôm nhau say đắm. Ông giận
đến không biết mình đang ăn món
gì trong miệng khi khám phá đôi
tình nhân kia là cô con gái cưng của
ông và thằng bạn trời đánh của
tôi, cháu ông.
Tôi mất mẹ
từ nhỏ, nên Ba tôi cưng lắm, chưa hề
la tôi một tiếng. Vậy mà hôm
đó ông la tôi một trận. Câu
cách ngôn "gần mực thì đen gần
đèn thì sáng" hồi xửa hồi
xưa, cũ như trái đất, được
ông đem ra giảng tới giảng lui mấy lần,
măc dù tôi cố gắng hết sức để
bào chữa cho Lâm Ni; nào anh ta là con
nhà giàu và tử tế, bên ngoài
như thế chứ học hành giỏi, nào
là hiền lành và tốt bụng lắm.
Nhưng tôi đành đứng chịu trận khi
ông chú tôi lỡ nóng dại mồm
dám xác nhận ngay trước mặt bà
thím là chính ông ta gặp Lâm Ni mấy
lần trong Bar Thu Thủy, và dưới Grand
Hôtel. Tôi nghĩ tối hôm đó chắc
ông cũng mệt với bà. Nói thì
nói vậy, chứ gì thì ông chú cũng
nể ông già tôi, và cũng cần
tôi để làm cho ông mấy bài
toán cộng trừ, tính lời lỗ mỗi
ngày, nên sau khi ông hết giận, rồi
đâu cũng vào đó.
Bị chửi
quá nên tôi cũng giận Lâm Ni, định
bụng sau hè vào phải dũa cho chàng ta một
trận và nhất định nghỉ chơi với
anh ta để vào Võ Tánh yên ổn
mà lo học hành.
Ngày nhập học,
khi đang ngơ ngác tìm lớp, thì có
người vỗ vai. Quay lại, thì đúng
là Lâm Ni. Anh ta vào Tam B còn tôi vào
Tam C. Gặp lại trong giờ ra chơi, tôi kéo
Lâm Ni ra ngoài, thụi vào bụng mấy
cái, kể lại chuyện tôi bị ông
chú đuổi. Anh ta không thèm an ủi
tôi một tiếng mà còn bảo tôi
lên nhà ông cậu ở với anh ta. Thực
ra chàng ta cũng là một thằng tốt bụng,
nhưng tôi nghĩ thầm nếu tiếp tục quen với
Lâm Ni sẽ còn gặp phiền phức nữa,
nên kể từ hôm ấy tôi lánh mặt anh
ta.
Vào Võ
Tánh, dường như Lâm Ni cũng thay đổi
nhiều. Mặc đồng phục và cắt
tóc tai đàng hoàng. Nhưng bây giờ
đi học bằng chiếc Vespa mới toanh. Chắc
là phần thưởng thi đậu của ông
già. Lâu lâu tôi thấy anh đứng
ngoài cửa sổ lớp Tam C của tôi trêu
ghẹo mấy người đẹp ngồi trong lớp.
Cái lớp Tam
C của tôi sao hiền lành quá. Chắc
là thiên hạ chuẩn bị để làm
người lớn, hay là các bà chị trong
lớp vừa đẹp vừa hiền như ma soeur,
nên không còn tên nào muốn làm ma
quỷ nữa. Ba năm ở Võ Tánh trôi qua rất
êm đềm, như mặt nước hồ thu,
không còn lại trong tôi điều đặc
biệt nào đáng nhớ.
Ngày nhập học
lớp Đệ Nhất, tôi có ý tìm
nhưng không thấy bóng dáng của Lâm
Ni. Tôi nghĩ chắc chàng ta rớt tú
tài 1, nên sang trường khác học lại.
Sau đó, tôi nghe mấy người học cùng
lớp với Lâm Ni bảo là anh ta đậu
tú tài 1 kỳ hai, nhưng đã theo ông cậu
thuyên chuyển đi nơi khác. Tôi thoáng
một chút bùi ngùi, khi nghĩ là chẳng
bao giờ còn gặp lại anh ta.
Ba năm sau
tôi vào quân trường Thủ Đức. Ra
trường được chuyển ra một đơn
vị tác chiến lưu động ở Ban Mê
Thuột, (mà lính tụi tôi thường gọi
là xứ Buồn Muôn Thuở, hay là Bụi
Mù Trời) làm trung đội trưởng.
Trong một cuộc
hành quân phối hợp, tiếp viện cho một
chi đoàn thiết quân vận bị phục
kích tại Quảng Nhiêu, sau khi giải tỏa
tình hình, tiểu đoàn tôi rút về,
trung đội tôi được lệnh ở lại
tăng phái cho một đại đội Biệt
Động Quân. Thấy tôi có vẻ lo âu
khi trung đội phải ở lại một mình giữa
chiến trường khói lửa chưa tan, ông tiểu
đoàn trưởng bảo:
- Chú mày
yên chí, Đại đội BĐQ này khá
lắm, thằng đại đội trưởng
này đánh đấm có tiếng trong binh chủng
mũ nâu đó.
Khi dắt trung
đội hơn hai chục thằng lính, nửa kinh
nửa thượng, đến trình diện đại
đội BĐQ, tôi sửng sốt khi nhận ra
ông đại đội trưởng chính
là Lâm Ni. Tôi đứng nghiêm đưa tay
chào:
- Tôi đem
trung đội tới trình diện trung úy.
Lâm Ni nhận
ra tôi ngay. Anh ta hét lên:
- Có phải
mày là thằng Ninh không.? Đ.m. trung úy
cái con c.., tao là Lâm Ni đây, mày
không nhận ra sao? Rồi anh ta ôm tôi quay mấy
vòng.
Giải tỏa
tình hình xong, trung đội của tôi tiếp
tục được đặt dưới quyền của
Lâm Ni, nhận lệnh ở lại tìm kiếm một
số chiến binh thất lạc và giữ an ninh cho
quân cụ lên kéo mấy chiếc M113 bị bắn
cháy và hư hại về Ban Mê Thuột. Tối
hôm ấy Lâm Ni giữ trung đội tôi
đóng quân chung với ban chỉ huy đại
đội của anh. Một điều chưa từng xảy
ra cho một đơn vị tăng phái. Hai đứa
uống hết bi đông rượu đế, nhắc
lại bao nhiêu kỷ niệm vui buồn thời
còn đi học. Anh nhớ từng tên thầy
cô giáo và bạn bè lúc trước.
Anh ân hận đã phá phách nghịch ngợm
làm buồn lòng thầy, bạn. Anh bảo
tôi, ngay sau khi rời Võ Tánh là anh đi
lính ngay. Anh thích đời quân ngũ và
hy vọng nó sẽ làm thay đổi cuộc sống
của một thằng nhà giàu vô tích sự
như anh. Khi biết anh chọn BĐQ, cha mẹ anh giận
và buồn lắm, nhờ ông cậu, bây giờ
làm lớn trong Bộ TTM, rút anh về, nhưng
anh nhất quyết chối từ. Trước khi đi ngủ,
anh ta còn hỏi tôi:
- Con nhỏ em
mày, con gái ông chú của mày ở
Nha Trang đó, bây giờ theo thằng cốt đột
nào rồi? rồi cười ha hả.
Hai hôm sau
chúng tôi có lệnh di chuyển vị
trí, và phải bung rộng ra phòng thủ.
Lâm Ni cho trung đội tôi xuống đóng
trong một cái đồn bên chân cây cầu
sắt (của một đơn vị địa
phương quân bỏ lại) để giữ
cây cầu khỏi bị phá hoại trước
khi quân cụ lên kéo hết mấy chiếc
thiết giáp bị hư. Cây cầu cách ngọn
đồi, nơi đặt ban chỉ huy của Lâm
Ni khoảng hai cây số.
Gần hai giờ
sáng, trung đội tôi bất ngờ bị tấn
công. Địch áp dụng chiến thuật cổ
điển tiền pháo hậu xung. Sau mấy loạt
82 ly, chúng ào ạt tấn công. Trung đội
tôi có vài người bị thương sau
đợt pháo kích đầu tiên, nhưng tất
cả đều chống trả mãnh liệt. Tôi
chỉ kịp cầm ống liên hợp máy PRC 25
báo cáo với Lâm Ni là đơn vị
tôi bị tấn công mạnh, cần ngay pháo
binh và một lực lượng tiếp ứng,
đánh từ phía sau lưng địch. Lâm
Ni bảo tôi cứ bình tĩnh yên tâm chiến
đấu, anh ta sẽ gọi pháo binh và gởi
ngay một bộ phận tiếp ứng. Không ngờ
lực lượng địch khá đông.
Chúng tôi bắn ngã tên này thì
tên khác lại xông lên. Chúng
đã dùng bêta phá mấy lớp rào
bên ngoài rồi hô xung phong. Pháo binh ta cũng
bắt đầu rót xuống bên ngoài.
Lúc này tôi chiến đấu hoàn
toàn như một khinh binh. Quả lựu đạn
cuối cùng tôi vừa mới ném ra, cũng
là lúc một vài tên địch
đã xâm nhập vào phía bên trong
hàng rào phòng thủ. Khi đạn
đã cạn, chúng tôi chuẩn bị
đánh cận chiến, thì nghe được tiếng
súng bạn khắp nơi bên ngoài và tiếng
hò hét: Biệt Động sát ! Địch vội
vàng tháo chạy, hai tên đặc công
vào bên trong bị chúng tôi bắt sống.
Tạm thời kiểm tra đơn vị: 3 chết, 7 bị
thương. Chưa kịp gọi máy báo
cáo, thì toán biệt động quân đầu
tiên vào bên trong, võng theo một
thương binh. Nghe một sĩ quan BĐQ gọi
máy xin trực thăng tản thương khẩn cấp
vì "đại bàng bị thương nặng",
tôi giật mình chạy đến chiếc
võng: Lâm Ni mặt đầy máu và thở
rất nhẹ. Tôi lay anh ta:
- Lâm Ni ơi,
có làm sao không ? Ninh đây.
Dưới
ánh đèn pin yếu ớt, gương mặt
anh ta xanh xao, mở hé mắt nhìn tôi.
Đôi môi rung động như muốn nói với
tôi điều gì. Tôi đưa tay sờ
lên môi anh, như là tôi đã hiểu
những gì anh muốn nói.
Vị thiếu
úy BĐQ vỗ vai tôi:
- Đúng ra
đâu có phải nhiệm vụ của trung
úy, tôi bảo ông nên ở lại, vì
chúng tôi chỉ đi có một trung đội
và toán thám báo, nhưng ông
đã lệnh cho ông đại đội
phó ở lại và ông trực tiếp dẫn
đầu toán thám báo chạy bay tới
đây, xông ngay vào sau lưng địch
mà đánh. Tội nghiệp chỉ có
ông bị thương.
Trực thăng tản
thương tới, tôi bế Lâm Ni lên, nắm
chặt tay anh trước khi máy bay cất cánh.
Tôi bùi ngùi lo lắng khi biết là anh
đã vì tôi mà bị thương, cầu
nguyện cho anh qua khỏi hiểm nghèo.
Lần ấy anh
còn sống, nhưng phải nằm điều trị
ở QYV hết 4 tháng, còn để lại mấy
vết sẹo trên cổ, và vì bị
thương ở thanh quản, nên giọng nói của
anh bị khàn đi. Sau đó đơn vị của
anh có lệnh chuyển lên Pleime, Pleiku. Tôi
có liên lạc thăm anh vài lần trên hệ
thống vô tuyến.
Bẵng đi một
thời gian, đầu mùa hè 72, đơn vị
tôi đang hành quân ở mật khu Lê hồng
Phong, Phan Thiết, thì có lệnh về phi trường
Sông Mao để được không vận
toàn bộ lên Kontum. Chiến trường đang
tới hồi quyết liệt. Trong một lần chuyển
quân hoán đổi vị trí phía bắc
Kontum tôi bất ngờ gặp lại Lâm Ni.
Lúc này anh đã mang lon Thiếu tá
và nắm một tiểu đoàn BĐQ. Hai thằng
chỉ kịp ôm nhau chửi thề vài câu.
Chưa kịp nói lời chia tay, thì mỗi thằng
đã mỗi ngả.
Cuối năm
1972, khi hiệp định Paris vừa ký xong, địch
quân chưa trở cờ. Hai bên tạm thời
hưu chiến kiểu da beo. Các đơn vị tham
chiến được chuyển về các vị
trí dưỡng quân. Tiểu Đoàn của
Lâm Ni được về Hàm Rồng. Đơn
vị tôi thì về Đồi Đức Mẹ,
Pleiku.
Đêm tiểu
đoàn Lâm Ni làm lễ tái xuất
quân tại Hàm Rồng được tổ chức
rất hùng tráng. Lâm Ni có mời tôi
đến dự. Buổi tiệc ra quân kết
thúc bằng một chương trình văn nghệ
khá đặc sắc, do biệt đoàn văn
nghệ trung ương từ Sài Gòn ra, phối hợp
với các toán văn nghệ tâm lý chiến
QĐ II đảm trách. Tôi ngồi hàng ghế
đầu với Lâm Ni. Khi có một nữ ca sĩ
từ Pleiku lên hát bài Chiều Trên
Phá Tam Giang, Lâm Ni rất cảm động.
Cô tên Giáng Vân, có khuôn mặt
khá xinh, phảng phất buồn, và giọng
hát trầm ấm thiết tha. Bài hát vừa
chấm dứt, Lâm Ni bước lên nắm tay
cô cám ơn và bất ngờ cởi tặng
cô chiếc đồng hồ Longine mới toanh mà
anh vừa mới mua từ Sài Gòn, khi được
bảy ngày phép về thăm cha mẹ anh.
Đêm
đó tôi ở lại với Lâm Ni. Anh kể
là cha mẹ anh cứ năn nỉ anh đổi về
Sài Gòn. Ông bà sẽ lo cho anh về BTL Cảnh
Sát hoặc bất cứ nơi nào ở Sài
Gòn, anh muốn. Ông bà cũng đưa anh
đến thăm gia đình một người
Tàu, có cô con gái làm chủ một
nhà hàng, mà ông bà định hỏi
cưới cho Anh. Ông bà nôn nóng có
đứa cháu đích tôn nối dõi.
Nhưng anh chỉ im lặng. Rồi khi bị hỏi
quá, anh hứa cho Anh ba năm nữa. Anh bảo
tôi, đời lính sống nay chết mai, vợ
con làm gì cho vướng chân vướng cẳng.
Đầu năm
73, trong trận tái chiếm căn cứ Charlie,
tôi bị thương nặng, phải nằm điều
trị hơn hai tháng ở QYV Pleiku. May mà chưa
bị cưa mất chân phải. Lâm Ni có
ghé lại thăm tôi một lần vội
vã, khi có dịp về Pleiku họp hành
quân. Khi chia tay, anh rút từ túi quần sau ra
một xấp tiền đưa cho tôi:
- Tiền ba
tháng lương của tao, mày cầm lấy
mà gởi cho vợ con mày. Mày đông
con. Tao độc thân, suốt cả năm sống ở
trong rừng, lỡ có chết, tiền không ai
xài uổng lắm.
Tôi từ chối,
nhưng Anh nhét xấp tiền vào dưới chiếc
gối tôi nằm.
Sau đó
tôi được theo học một khóa tham
mưu tại Long Bình. Mãn khóa, được
điều về Phòng hành Quân QĐ II.
Lâm Ni thì vẫn nay đây mai đó,
nhưng chúng tôi vẫn thường liên lạc
hỏi thăm tin tức nhau trên hệ thống vô
tuyến. Một lần khi bay bao vùng, biết anh vừa
lên trung tá, tôi đáp xuống thăm,
và mang mừng anh ta chai Hennessy, loại rượu anh
thích nhất. Anh bảo, BCH/BĐQ dự định
đưa anh ra nắm một Liên Đoàn
ngoài vùng 1 thay cho anh Liên Đoàn trưởng
vừa tử trận, nhưng tình hình ở
đây đang nguy ngập, nên anh chưa rời
đơn vị được.
Tháng 3/75, ngay
sau khi Ban Mê Thuột mất, tôi may mắn đuợc
theo BTL Tiền Phương. Nói là Tiền
Phương nhưng lại đóng ở Nha Trang
và một đôi khi ở Khánh Dương.
Có lệnh bỏ
Kontum và Pleiku. Tiểu Đoàn BĐQ của
Lâm Ni là một trong những đơn vị
được chỉ định đi đầu, mở
đường cho đoàn quân di tản từ
Pleiku xuống Tuy Hòa theo tỉnh Lộ 7. Một kế
hoạch triệt thoái tồi tệ nhất trong lịch
sử chiến tranh Việt Nam, kéo theo sự sụp
đổ cả miền Nam.
Tôi được
chỉ định làm trưởng toán, dùng
một hợp đoàn trực thăng bay đi
liên lạc và hướng dẫn những
toán quân thất lạc trong rừng. Ngày N+3,
trong lúc chiến trường ác liệt và tồi
tệ nhất, tôi may mắn liên lạc được
Lâm Ni trên tần số không lục. Tôi
tìm mấy bãi đáp tương đối
an toàn, giục Lâm Ni đến đó để
tôi bốc. Nhưng anh ta từ chối, bảo là
mặc dù tiểu đoàn của anh bị tan
tác, quân số chỉ còn gần một trung
đội, nhưng anh không thể bỏ anh em vào
lúc này.
Không ngờ
đó cũng là lần cuối cùng tôi
nghe giọng nói của Lâm Ni. Năm 1977, trong một
trại cải tù ở Sơn La, tôi gặp lại
một sĩ quan của Lâm Ni lúc trước. Anh
ta là sĩ quan duy nhất trong đơn vị
còn sống sót. Anh cho biết là khi bị
địch vây và kêu buông súng đầu
hàng, Lâm Ni đã bắn tới viên đạn
cuối cùng. Anh tự sát bằng một quả
lựu đạn loại tấn công, và
đã chết chung với một đám địch
quân định vây bắt anh.
Mùa hè
năm ngoái, tôi có cô con gái út lấy
chồng bên London. Cả nhà tôi sang đó
dự tiệc cưới do nhà trai khoản
đãi. Sau đám cưới, vợ chồng
cô con gái đi Thái Lan hưởng tuần
trăng mật. Chúng tôi muốn ở lại
London ít hôm để xem vài thắng cảnh
và đến thăm gia đình một người
bạn học cũ của bà xã tôi ở
thành phố Birmingham, cách London chừng ba giờ
lái xe. Cậu rể nhờ một người bạn
chí thân, một bác sĩ trẻ khá bảnh
trai, và cũng là phụ rể trong đám
cưới, làm tài xế và hướng dẫn
viên cho chúng tôi. Hơn nữa nhà cậu
ta cũng ở Birmingham.
Ngày cuối
cùng, trước khi rời khỏi Birmingham, cậu ta
mời chúng tôi ghé lại nhà để
dùng một bữa cơm với gia đình.
Nói là gia đình, nhưng thực ra chỉ
có hai mẹ con thôi. Cậu bảo thế.
Trới nóng
như lửa đốt, lại biết chúng tôi
đang đói, cậu ta gọi cell- phone về
nhà bảo bà mẹ chuẩn bị thức ăn
sẵn. Về đến nhà, cậu ta vội vã
đi lấy khăn, hường dẫn chúng tôi
vào phòng tắm rửa mặt, rồi chạy
vào bếp phụ mẹ. Vào phòng ăn, khi
chúng tôi kéo ghế ra chưa kịp ngồi
thì bà mẹ bưng thức ăn ra vui vẻ
chào, và xin lỗi vì bận tay nên
không ra cổng đón được. Thấy
người đàn bà này có nét giống
một người nào đó mà tôi
đã gặp, tôi cố gắng lục lọi
ký ức, nhưng vẫn không nhớ ra.
Khi cơm nuớc
xong, bà mời chúng tôi lên phòng
khách uống nước và ăn tráng miệng.
Nhìn một tấm ảnh phóng lớn treo
trên vách. Lại là một người
lính. Tôi tò mò bước lại xem
và sững sờ khi người trong ảnh chính
là Lâm Ni.
Sau một lúc
hàn huyên, tôi mới nhận ra người
đàn bà này chính là cô ca sĩ
tâm lý chiến có tên Giáng Vân,
trong đêm làm lễ tái xuất quân của
đơn vị Lâm-Ni trên Hàm Rồng lúc
trước. Một cô ca sĩ tâm lý chiến,
mà ngày xưa nhiều kẻ đánh giá
chẳng ra gì, chết chồng từ thuở mới
20, có nhan sắc, trải qua bao nhiêu khốn khổ,
vậy mà không hề bước thêm một
bước nào, ở vậy nuôi con học
hành thành đạt, đức hạnh nên
người. Điều bất ngờ hơn, cậu thanh
niên dễ thương, tốt bụng, đón
đưa chúng tôi mấy ngày hôm nay, cũng
là người bạn chí thân của thằng
rể chúng tôi, lại là giọt máu duy
nhất của Lâm Ni còn lại trên thế
gian này.
Tôi có hỏi
về ông bà nội cháu, Giáng Vân cho
biết là sau khi chạy từ Pleiku về, cô phải
nằm bệnh viện cho đến mấy tháng sau
ngày miền Nam thất thủ, nên đã phải
sinh non, may mà mẹ tròn con vuông. Khi sanh
cháu xong, chị có đi hỏi thăm cha mẹ
Lâm Ni, nhưng đuợc mấy người láng
giềng cho biết là ông bà đã đi
về Trung quốc.
Tôi bùi
ngùi nghĩ tới Lâm Ni, người bạn học
có nhiều duyên nợ với tôi, đã
gây cho tôi một vài phiền muộn, nhưng
cũng đã để lại trong tôi biết bao
điều xúc động. Không hiểu, ở một
nơi xa xăm nào đó, anh có biết
là tôi đã bất ngờ gặp lại vợ
con anh. Cũng có thể chính anh đã linh
thiêng đưa tôi đến đây. Một
nơi xa lạ, ngàn trùng cách biệt với
quê hương, với Nha Trang. Nơi mà một thời,
anh đã có biết bao kỷ niệm với thầy
với bạn và nhất là với tôi, thằng
bạn nhóc tì của anh ngày trước.
Ông bà già của Lâm Ni chắc không ngờ
là mình đang có một đứa cháu
đích tôn trên thế gian này, mà
trước đây ông bà đã từng
mơ ước.
Trước khi từ
biệt vợ con Lâm Ni, tôi đứng lặng lẽ
một mình trước tấm ảnh của anh,
ôn lại bao nhiêu chuyện cũ rồi buộc miệng
thì thầm hai câu thơ quen thuộc:
Những người muôn
năm cũ,
Hồn ở đâu bây
giờ ?
Từ trong tấm
ảnh, dường như Lâm Ni đang nhìn
tôi mỉm cười.
PHẠM TÍN AN-NINH
(1C
Võ Tánh 62)
Ghi chú của người viết: Bài
viết này xin được gởi đến chị Lâm Ni và
cháu Lâm Bình như một món quà muộn
màng. Bạn bè Võ Tánh, nếu có ai
quen biết và còn nhớ đến Lâm Ni, muốn
hỏi thăm vợ con anh, xin liên lạc với
người viết.
Cám ơn.
(Đỗ Thị Minh Giang
sưu tầm và chuyển)