Cuộc Hồi Sinh của
thế kỷ
(T.Vấn)
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ
đá ơi
Hãy kể lại mười
năm chuyện cũ
Một lần kể lại để
rồi thôi
(Ta Về - Tô Thùy Yên)
1.
Trong lúc chuẩn bị các thứ cần
thiết cho ngày gặp gỡ lại những người
bạn của một thời chiến tranh, tù ngục,
rồi lưu vong, tình cờ tôi bắt gặp tấm
giấy ra trại (cải tạo) nằm lẫn lộn giữa
những hình ảnh, thư từ cũ gần 20
năm tôi không một lần giở ra xem lại,
thậm chí cũng không nhớ đến sự
hiện hữu của chúng. Đó là những
biểu tượng của một quá khứ mốc meo. Cuộc sống hàng
ngày đã đủ những chộn rộn, phiền
não, âu lo. Mấy ai còn có thì giờ
(và đủ can đảm) ngoảnh lại nhìn
khoảng đời đầy những bất trắc của
mình. Nhưng, với tôi, mảnh giấy ra trại
ố vàng, sờ vào gợi cảm giác tờ
giấy sẽ tan ra như những hạt bụi (vì
thời gian, vì chất lượng giấy quá tệ)
đã không cho tôi có lựa chọn
nào khác ngoài việc mở căng
đôi mắt mà nhìn lại những
tháng ngày không thể quên được ấy.
Mảnh giấy ra trại cũ
nát, nét mực rẻ tiền nhòe nhoẹt ở
nhiều chỗ, đã một thời có giá trị hơn cả con người
tôi. Sau gần 9
năm thất thểu lê từng bước chân mệt
mỏi của chàng trai 26 tuổi qua những địa
ngục trần gian từ Nam chí Bắc, từ đồng
bằng lên tới những rừng núi thượng
du, cuối cùng, tôi cũng đã được
cầm lấy tờ giấy "quý báu" ấy
để trở lại đời sống làm người.
Nhưng, những ngày ấy,
trên đất nước chúng tôi, người
ta bước ra khỏi một nhà tù nhỏ chỉ
để đặt chân vào một nhà
tù khác, lớn hơn. Ngay những ngày đầu
tiên trở về lại thành phố quê
hương, tôi đã cảm nhận ngay
được điều đó. Cầm mảnh
giấy ra trại đến Công An quận để
xin được xác nhận "Đã
Trình Diện" (con
dấu hình chữ nhật màu đỏ có 3
chữ in đậm Đã Trình Diện"
mà biết bao "cải tạo viên"
thành phố "mang tên bác hồ vĩ đại"
đã khốn đốn, đã mất ăn mất
ngủ, đã không thể có lựa chọn
nào khác hơn ngoài tìm mọi cách
để vượt biên, dù biết hễ bị
bắt lại thì sẽ tàn đời trong
các nhà tù khổ sai), để xin được
tạm trú ngay trong căn nhà cha mẹ, căn
nhà mình đã lớn lên, đã
có những giấc mơ dậy thì nửa
đêm về sáng ; ngay trong thành phố của
mình, nơi mình đã cắp sách đến
trường, đã có những kỷ niệm
đẹp nhất đời người; ngay trên
đất nước của mình, mà mình
và bạn bè đã từng gian khổ nhọc
nhằn, đã từng đổ máu, đã
từng nằm xuống để gìn giữ. Chỉ
để được xác nhận "Đã
Trình Diện" và được "Cho Tạm
Trú", tôi đã mất gần 2 năm
đi lên đi xuống văn phòng công an quận,
công an thành phố và 1 chỉ vàng "cám
ơn" mượn được từ một ân
nhân. Trong 2 năm trời ấy, tôi còn phải
tham dự hàng trăm buổi họp "kiểm
điểm", khi thì với các bà con sống
cùng khu phố, khi thì với công an khu vực,
công an phường, công an quận, công an
thành.
Cuộc mưu sinh (của tôi
và rất nhiều người bạn đồng cảnh
ngộ) những ngày ấy lại là một nỗi
ám ảnh khác.
Chúng tôi ngày ngày túa ra trên những
đường phố nhớp nhúa bụi bặm, phương
tiện đi lại là chiếc xe
đạp cà tàng mua trả góp từ một
người quen nào đó. Biết mình
thân phận "sĩ quan ngụy đi cải tạo
về", xin việc ở đâu cũng bị từ
chối, chúng tôi đã làm đủ thứ
nghề chưa từng học, chưa từng làm,
chưa từng nghe nói tới : đạp xích
lô, thợ hồ, thợ nề, sửa xe đạp,
sửa và bơm quẹt gaz, bán vé số dạo,
thồ hàng, phu vác mướn ... và hàng
ngàn những thứ nghề không tên khác,
miễn có được bữa cơm đạm bạc
hàng ngày cho mình và gia đình.
Những ngày sống tạm
trú trên chính quê hương của
mình ấy, tuy không đến nỗi tuyệt vọng
như những ngày còn ở trong các trại
tù tiền sử, nhưng cũng đủ khổ nhọc
để chúng tôi hiểu rằng không thể
sống mãi như thế này được. Con cái không được
bước chân vào đại học vì
lý lịch cha anh (đó là chưa kể
tìm đâu ra tiền cho con đi học). Bản thân sống trong nỗi lo sợ
thường trực, không biết ngày nào
mình sẽ lại bị tống vào các trại
cải tạo vì bất cứ một biến động
chính trị nào. Và dù phần lớn
đã được "trả quyền công
dân" sau thời gian vài năm, nhưng
chúng tôi là những công dân hạng
hai, không có quyền hạn nào khác
ngoài làm việc quần quật để
đóng đủ mọi thứ tiền cho khóm,
cho phường, cho thành phố.
Và vì thế, nhiều người
trong anh em chúng tôi đã tìm mọi
cách để vượt biên, đi tìm
cái sống trong cái chết. Nhiều người
đã bỏ mình, trên biển, trong những
khu rừng xa lạ phía Tây đất nước.
Nhiều người bị bắt, kéo
dài thêm nhiều năm tù tội nữa.
Và trong những nhà tù tiền sử,
vẫn còn rất nhiều người chưa thấy
ngày về sau mười mấy năm mòn mỏi.
2.
Khoảng cuối năm 1989, giữa sự tuyệt
vọng và chán chường vì cuộc sống
ngày càng đen tối, chúng tôi chuyền
tai nhau một cái tin "động trời" : Hai chính phủ Hoa Kỳ và
Việt nam đã ký kết thỏa ước
đồng ý thả hết các cựu quân
nhân viên chức chế độ cũ còn
trong các trại cải tạo và cho phép
các cựu tù nhân cải tạo được
sang định cư ở Hoa Kỳ theo diện HO
(Humanitarian Operation) *. Tin nghe được từ
đài VOA, từ BBC, từ những
nhóm người thường xuyên tụ tập ở
đường Nguyễn Du (trước cửa sở Ngoại
Vụ) để nghe ngóng về việc tái thiết
lập chương trình xuất cảnh với
lý do đoàn tụ gia đình (ODP), từ những
cuộc gặp gỡ nhau bất chợt trên đường
phố. Những ngày ấy, người
dân sinh sống ở các thành phố lớn ở
miền Nam
coi việc được xuất cảnh đi ngoại
quốc (nhất là đi Mỹ) tương tự
như được lên thiên đường hạ
giới.
Ban đầu, nửa tin nửa ngờ, chúng
tôi không hề dám nghĩ đến một
ngày như thế sẽ xẩy ra. Một
ngày mà, những công dân hạng hai, những
người bị xếp vào thứ hạng tận
cùng nhất trong xã hội, được
có cơ hội "lên phi cơ phản lực
bay thẳng vào thiên đường". Rồi
dần dà, nguồn tin đã được kiểm
chứng với những thông báo chính thức
từ phía chính quyền Cộng sản, cho
phép tù cải tạo được nộp
đơn xin xuất cảnh. Cả một nửa
đất nước xôn xao. Bậc thang giá
trị xã hội đã đảo ngược. "Tù cải tạo" trở nên
thành phần được nói đến nhiều
nhất, được trọng vọng nhất. Tờ giấy Ra Trại sơ sài, tuy vốn
đã có giá trị hơn chính bản
thân người chủ của nó, nay lại
càng có giá trị hơn gấp bội.
Vì nó là tờ giấy thông
hành bước vào cửa "thiên đường".
Và, tháng 1 năm 1990, người
dân Sài Gòn nửa vui nửa buồn tiễn
đợt tù cải tạo đầu tiên rời
đất nước ra đi. Mới hôm nào, họ còn
là những người bị ngược
đãi, nay được chính thức bước
vào cổng phi trường. Cánh
cửa của sự sống đã mở rộng.
Tự Do và bữa cơm no, chiếc áo ấm. Tương lai và những cơ hội.
Tất cả như từ trời rơi xuống, như
chỉ xẩy ra trong những câu chuyện cổ
tích.
Liên tiếp từ một ngày rất đẹp
của tháng 1 năm 1990 đến nay, hầu hết
những người cựu tù năm xưa
đã lên đường đi định cư
tại nước Mỹ. 18 năm của một cuộc
hồi sinh từ đói rách, tù đày,
áp bức. Trên mảnh đất của Tự
do, của Cơ hội, chúng tôi đã
tìm lại được ý nghĩa của sự
sống. Bằng vào sự cần cù, siêng
năng, ý chí cầu tiến mãnh liệt, rất
nhiều anh em chúng tôi đã góp phần
làm rực rỡ hơn ánh sáng của Hồi
Sinh. Hơn thế nữa, nhiều con em của
họ đã vươn tới những vị
trí đáng trân trọng trong xã hội xứ
người bằng vào nỗ lực học tập,
làm việc và đóng góp không ngừng.
18 năm là một khoảng thời gian vừa
đủ dài để đánh giá một cuộc
hồi sinh, mà rực sáng nhất là những
thành quả của thế hệ thứ hai.
Nhiều người cựu tù năm
xưa tin tưởng rằng không có gì phải
hối tiếc trong quyết định bỏ nước
ra đi 18 năm về trước. Đó là một quyết định
đúng đắn, ở cả hai ý nghĩa : gia đình và tổ quốc.
3.
Truyền thống nhân nghĩa Việt nam dậy
rằng : Ăn trái nhớ kẻ trồng
câỵ
Ngày chúng tôi hân hoan bước
lên phi cơ đi làm lại đời mình
18 năm về trước, chúng tôi chỉ biết
một điều chắc chắn là chính phủ
Mỹ đã can thiệp để chúng tôi,
những cựu tù cải tạo, có được
cái ngày đáng nhớ đó. Chúng tôi cũng được biết
đến tên người
phụ nữ họ Khúc ** và cái
tên Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị
Việt Nam
ở Mỹ, nơi mà một số anh em đã gởi
hồ sơ xuất cảnh đến để xin
giúp đỡ, nhưng cái biết ấy rất
mơ hồ và không chính xác.
Chỉ đến khi đã tạm ổn
định cuộc sống trên xứ người, phần
lớn anh em chúng tôi mới biết thêm rằng,
không phải "tự nhiên" chính phủ
Mỹ nhớ đến mình, những người bạn
đồng minh cũ.
Có rất nhiều người Việt nam,
may mắn đến Mỹ từ tháng 4 năm 1975,
đã góp phần không nhỏ, nếu
không muốn nói là quyết định trong
việc làm cho phép lạ hồi sinh xẩy ra 18 năm
trước.
Năm 1977, một nhóm phụ nữ Việt Nam sinh sống trên nước Mỹ
đã tụ họp nhau lại dưới cái
tên: Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị
Việt Nam.
Đứng đầu hội là một người họ
Khúc, có chồng lúc ấy vẫn còn
đang ở trong trại cải tạo cùng với
hàng trăm ngàn người khác. Trong khoảng
thời gian 12 năm vận động để
chính phủ quan tâm đến những người
bạn đồng minh bị kẹt lại ở Việt
Nam, họ đã làm những việc thật
đáng ngưỡng mộ, nhiều khi tưởng
như vượt quá sức của những nữ nhi.
Hiểu rõ quy luật hoạt động của guồng
máy chính quyền nước Mỹ, họ
đã hoạt động như những người
Mỹ chính thống : vận động
các Nghị sĩ, dân biểu; tiếp xúc trực
tiếp với các viên chức thẩm quyền của
bộ Ngoại giao; tạo mối liên lạc cần
thiết với các cơ quan truyền thông cả
Mỹ lẫn Việt để nhờ phổ biến tin
tức, gây áp lực dư luận. Và cả
ra điều trần trước Quốc hội Mỹ,
những cuộc vận động những khuôn mặt
quốc tế quan trọng: Đức Giáo hoàng,
Tổng thư ký Liên hiệp quốc.
Năm 1984, Chính phủ Reagan chủ
trương việc phục hồi lại quyền lợi
và danh dự cho những cựu binh Mỹ trong chiến
tranh Việt Nam. Nhân cơ hội đó, hội
Gia Đình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam đẩy
mạnh những nỗ lực can thiệp cho các
tù nhân VNCH với chính phủ và quốc
hội Mỹ. Kết quả thật khả quan. 5 năm
sau nhiều hoạt động chính thức từ
phía chính phủ Mỹ với chính phủ Việt
nam (cộng sản), ngày 30 tháng 7 năm 1989 một
thỏa ước đã được ký kết,
đưa đến việc định tái định
cư của trên dưới 300 ngàn cựu
tù cải tạo và gia đình.
Năm 1994, chương trình HO chấm dứt,
nhưng nhận thấy còn rất nhiều cựu
tù, tuy có đủ điều kiện để
ra đi (bị cải tạo từ 3 năm trở
lên), nhưng gặp nhiều khó khăn trong việc
nộp đơn (ở nơi xa xôi hẻo lánh,
không có tiền để lập hồ sơ ...)
hay vì hoàn cảnh gia đình (con không
được cho đi với cha mẹ ...), hội Gia
Đình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam vẫn
tiếp tục vận động để lại
đưa đến kết quả tốt đẹp
là việc ra đời của Tu chính Án
McCain dành cho con cái những cựu tù cải
tạo (trên 21 tuổi nhưng chưa lập gia
đình) và việc mở lại chương
trình HR (Humanitarian Resettlement) dành cho những cựu
tù đủ điều kiện được định
cư tại Mỹ nhưng chưa được cứu
xét. Sau 10 năm hoạt động, Tu chính
án McCain hết hạn ngày 30 tháng 9 năm
2005, hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị
Việt Nam lại cố gắng vận động cho
chương trình này được gia hạn
đến 30 tháng 9 năm 2007 để thêm thời
gian cho những người chưa lo đủ các thứ
giấy tờ cần thiết.
Tất nhiên, một công việc to lớn
như thế đòi hỏi không chỉ trí
tuệ, sự kiên trì mà cả tấm
lòng tận tụy, hy sinh ấy phải là
công trình của nhiều người, nhiều tổ
chức, nhưng hội Gia Đình Tù Nhân Chính
Trị Việt Nam với con chim đầu đàn họ
Khúc luôn luôn đứng ở vị trí
tiên phong và có phần đóng góp thật
đáng ngưỡng mộ.
4.
Cuộc sống như dòng nước
chảy, luôn đẩy người ta về phía
trước. 18 năm trên xứ người, những con
người khốn khổ ngày xưa nay đã
thay da đổi thịt. Không
còn màu da đen sạm vì nắng gió
và tấm thân thể gầy đét vì
thiếu ăn. Không còn những
đêm đang ngủ, nghe tiếng bước chân
trước cửa nhà mà giật mình hoảng
hốt. Không còn nỗi lo âu nhìn
đàn con đang lớn mà tương lai của
chúng thì đen tối và ngột ngạt
như những buổi tối Sài Gòn cúp
điện. Họ đang được
làm người.
Nhưng nhịp sống vội vã
không cho một ai cơ hội đứng lại ngoảnh
nhìn phía sau.
Và phải kể đến cái đáng sợ
của sự no đủ về vật chất. Thế nên, ở nhiều người,
quá khứ đau thương vất vưởng 18
năm trước chỉ còn là câu chuyện
được kể lại trong những lúc trà
dư tửu hậu. Vẫn biết, "lòng
người như chiếc lá nằm trong cơn
gió vô tình", nhưng, chả lẽ với
những người đã từng chết đi sống
lại nhiều lần, cũng không vượt
lên trên được lẽ thường
tình ấy sao ?
T.Vấn
www.t-van.net
--------------------------------------------------------------------------------
* Theo chính bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch
hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị Việt
Nam, trong lúc trò chuyện với các HO dịp
Hội Ngộ tháng 9 năm 2007 ở Nam Cali,
đã cho biết rằng hai chữ HO có nguồn
gốc từ phía chính phủ Việt Nam, vì
họ gọi các danh sách người xuất cảnh
bằng H-01, H-02, H-03 v…v.. Do đó, theo
bà diễn dịch HO là Humanitarian Operation (hay Order)
là không đúng.
** Tôi có một người bạn rất thân
cũng họ Khúc, cũng chữ lót là Minh. Người bạn thân thiết ấy
đã có mặt trong một quãng đời
đẹp nhất mà trí nhớ của tôi
không bao giờ cho phép tôi quên lãng, ngoại
trừ một ngày nào đó tôi bị
mang chứng bệnh Alzheimer. Ngày tôi ra khỏi
trại tù, định mệnh đã đẩy
người bạn thân ấy của tôi sang
phía bên kia một dòng
sông rất rộng, không một chiếc thuyền
nào có thể đi hết khoảng cách ấy
mà không bị chìm. Ngày ấy,
"Tôi đứng bên kia bờ dĩ vãng.
Thương về con nước ngại ngùng
xuôi (Hoàng trúc Ly)".
Tôi mang ơn người bạn
thân họ Khúc ấy đã cho tôi một
phần đời đẹp đẽ, như bây giờ
tôi mang ơn người phụ nữ trưởng
thượng cũng họ Khúc đã cho tôi
cơ hội để hồi sinh. T.Vấn
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)