Mùa
thu ở trại Sikiew - Thái Lan
(TRẦN TRUNG ĐẠO)
Boston hôm nay
trời mưa. Mùa thu đang qua trên thành phố. Lá rơi
đầy trên con đường nhỏ và nhiều nhất
là trên băi đậu xe bên hông nhà. Nh́n ra vườn tôi chợt
nghĩ đến một cuối tuần bận rộn
đang chờ đợi và những việc phải làm
để tiễn đưa đám lá vàng khô đi theo luật
tuần hoàn của vũ trụ.
Mùa thu là mùa của
thi ca, là nguồn cảm hứng cho bao nhiêu bài thơ t́nh tuyệt
vời của nhiều thi sĩ. Hai câu thơ "Con nai
vàng ngơ ngác/ Đạp trên lá vàng khô" có thể là
tưởng tượng của nhà thơ Lưu Trọng
Lư nhưng ở Vermont là chuyện rất thường
xảy ra vào mỗi đầu tháng Mười. Có khi xe phải
dừng lại một đoạn khá dài để chờ
cho cặp t́nh nhân nai chầm chậm dẫm lên trên xác lá
băng qua đường. Phải chăng v́ những ǵ
đẹp nhất thường dễ tàn phai nên mùa thu
thường được đưa vào văn
chương gắn liền với những hạnh phúc vội
vàng và chia ly tan nát.
Mười
tám năm trước tôi có viết một bài thơ về
mùa thu, trong đó có hai câu:
Một chiếc lá vừa
rơi trên nấm mộ
Thu đă về rồi
đó phải không em?
Thoạt nghe
như mang âm hưởng của Đinh Hùng trong "Trời cuối
thu rồi em ở đâu / Nằm trong đất lạnh
chắc em sầu". Không phải. Tôi
không viết cho một người t́nh mà viết về một
cô gái không quen, 26 tuổi, đă sống, chịu đựng
và chết trong một hoàn cảnh vô cùng thương tâm ở
trại Sikiew Thái Lan.
Tôi nhắc
đến mùa thu chỉ v́ đó là thời điểm tôi
viết bài thơ và cũng v́ tên em là Thu Cúc, Hoàng Thị Thu Cúc.
Ba của em
là một cựu công chức chính quyền Việt Nam Cộng
Ḥa bị tù và chết trong tù. Em dắt bốn người
em và một người cháu vượt biên sang Thái Lan. Cuối
năm 1992, gia đ́nh em bị từ chối quyền tỵ
nạn chính trị. Phẫn uất trước quyết
định quá phũ phàng của Cao Ủy, em treo cổ tự
tử. Tấm h́nh em nằm bên cạnh cuộn dây đă
được nhiều báo Pháp đăng và câu chuyện cũng
đă được các hăng tin quốc tế gởi đi
từ Bangkok.
Trong lúc trại
tại các quốc gia khác, đồng bào tỵ nạn là những
thuyền nhân đúng với định nghĩa, đồng
bào tỵ nạn tại Thái Lan bao gồm một số
không ít đă vượt biên bằng đường bộ
qua ngả Campuchia. Tôi không biết Thu Cúc và các em đến
Thái bằng ngả nào. Nói đến Thái Lan là nói đến
thảm cảnh hải tặc đă và đang ám ảnh
trong tâm trí của nhiều đồng bào bất hạnh.
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, mỗi ghe tỵ
nạn trong hải lộ từ Việt Nam vào vịnh Thái
Lan đă bị hải tặc tấn công trung b́nh 3.2 lần.
Cao Ủy Liên Hiệp Quốc ghi nhận 881 vụ hăm hiếp.
Tuy nhiên con số đó như chúng ta biết chỉ là con số
rất nhỏ so với thực tế bi thảm mà đồng
bào ta đă gánh chịu.
Những
năm đầu của thập niên 90, tôi và bạn bè sinh
hoạt trong phong trào Chống Cưỡng Bách Hồi
Hương ở Mỹ để yểm trợ đồng
bào đang chống cưỡng bách hồi hương ở
các trại tỵ nạn. Chúng tôi không phải là hội
đoàn hay tổ chức ǵ mà chỉ là một nhóm nhỏ từ
VietNet và các tổng hội sinh viên. Công việc chính của
chúng tôi là quyên tiền cho các trại qua h́nh thức các buổi
đi bộ phần lớn do LAVAS tổ chức, cho các
cơ quan đang giúp đồng bào làm hồ sơ tỵ nạn
và gởi thư đến chính giới của nhiều
nước kêu gọi họ tiếp tục nhận người
tỵ nạn Việt Nam. Chúng tôi thường đặt
bàn ở các chợ để phân phối tài liệu về
các thảm cảnh đang diễn ra cho số phận hàng
trăm ngàn đồng bào đang chờ thanh lọc ở
các trại Đông Nam Á.
Những cố
gắng của chúng tôi chỉ là những hạt nước
nhỏ, không thay đổi được ǵ. Rất nhiều
đồng bào ở các trại Sikiew, Galang, Pulau Bidong, White
Head phẫn uất và đă chọn cách phản đối
trong tuyệt vọng. Một Hoàng Thị Thu Cúc ở Sikiew, 26 tuổi,
treo cổ, một Lâm Hoàng Mạnh ở Pulau Bidong, 22 tuổi,
nhảy xuống vực sâu, và cũng có trường hợp
đáng thương hơn như em Lưu Thị Hồng Hạnh
chỉ mới 16 tuổi trong diện không thân nhân đă tự
thiêu.
Nhân
loại có nhiều cách sống nhưng có lẽ trên thế giới này không có một dân tộc nào lại có nhiều cách chết hơn dân tộc Việt Nam.
Tôi hay nghĩ
đến đến những chịu đựng, những
cách chết thương tâm của đồng bào ḿnh trong một
giai đoạn lịch sử đầy biến cố.
Đất nước chúng ta có một thời như thế.
Một thời, hàng triệu người Việt Nam đă
phải bỏ lại sau lưng những ǵ ḿnh trân quư nhất
để ra đi t́m tự do. Một thời, những bài
ca không c̣n được phép hát lên thay cho lời tỏ t́nh
của những kẻ mới yêu nhau. Một thời, những
bài thơ không c̣n được khắc lên hàng phượng
đỏ trong sân trường làm chứng tích cho mối
t́nh học tṛ đầy kỷ niệm. Một thời những
căn nhà thân yêu đă bị thay đổi chủ và những
trường học, những con đường thân quen
đă bị đổi thay tên.
Trên website của
tôi, bên cạnh bài thơ Vĩnh Biệt Em, Thu Cúc, là bức
h́nh bốn người em ruột và một người
cháu đang ngồi chung quanh thi hài đắp vải trắng
của Thu Cúc. Chiếc dây đă được tháo khỏi
cổ ra nhưng vẫn c̣n đặt bên cạnh em. Cả
gia đ́nh ngồi chung quanh em trong căn pḥng đầy
bóng tối. Không một ai nói lời nào. Bến bờ tự
do c̣n quá xa xôi nhưng cánh chim đầu đàn vừa trúng
đạn. Vách đá vô tri. Lời than vô nghĩa. Ngôn ngữ
dù phong phú bao nhiêu cũng không thể nào tả được
nỗi đau thương của các em lúc đó.
Mười
tám năm sau.
Cách đây
không lâu, một độc giả viết vào mục ư kiến
bằng tiếng Anh phía dưới bài thơ. Tôi xin dịch
ra tiếng Việt: "Tôi đánh tên của chị tôi trong Google
và t́m được bài thơ này, và cũng thấy h́nh của
3 người anh, tôi, và cháu trai. Tôi cảm thấy thật
buồn. Đó là ngày buồn nhất trong đời. Tôi sẽ
không bao giờ quên ngày đó. Cám ơn ông Trần Trung Đạo,
người đă viết bài thơ để san sẻ với
hương hồn của chị em và san sẻ với
chúng tôi về cái ngày khủng khiếp trong cuộc đời
của chúng tôi. Tôi sẽ thương, sẽ nghĩ về
và sẽ không bao giờ quên chị cho đến cuối
đời ḿnh. Tất cả gia đ́nh tôi hiện đang
sống ở Mỹ (tiểu bang Maryland). Tôi là người
ngồi thứ hai từ phía trái và bà con trong trại ngày
đó gọi tôi là Cu Bi ".
Tôi rất mừng
khi đọc được ư kiến của Cu Bi. Hoàng Thị
Thu Cúc đă chết trên đất Thái xa xôi để lại
bốn người em trong đó có Cu Bi, ngày đó c̣n rất
nhỏ. Chết là thách thức, vơ khí và hy vọng cuối
cùng của một con người trước hoàn cảnh.
Em chọn cái chết, có thể một phần, v́ nghĩ rằng
chỉ với cách đó Cao Ủy mới chấp thuận
cho các em của em được định cư. Thu Cúc
nghĩ đúng, gia đ́nh c̣n lại sau đó đă
được công nhận quy chế tỵ nạn như
Cu Bi đă viết dù đă trả bằng một giá quá
đắt.
Đúng, sai,
nên, không nên đều chỉ là những phán xét của hôm
nay và vô nghĩa đối với những người ngày
đó đang quằn quại trong vực thẳm.
Cám ơn
Hoàng Thị Thu Cúc. Thân xác em như chiếc lá thu ngoài sân trại
tỵ nạn Sikiew ngày nào, đang ḥa tan vào trong ḷng đất
nhưng cũng từ nơi đó những bụi Cúc vàng
xinh đẹp và đầy hy vọng cho tương lai sẽ
vươn lên.
Trần
Trung Đạo
---------------------
Vĩnh
Biệt
Em, Thu Cúc
(Gửi hương hồn em Hoàng Thị Thu
Cúc Trại Sikiew, Thái Lan)
Con chim nhỏ
chiều nay không hát nữa
Trại Cấm
buồn tia nắng cũng vàng hơn
Đôi mắt
khép cuộc đời em đóng cửa
Đường
về Nam phảng phất một linh hồn
Em
trở lại bóng ma từ viễn xứ
Cổng
trường xưa nghe đá rỉ mồ hôi
Như
nước mắt đong đầy trong quá khứ
Bướm
hoa ơi, vườn mộng cũ đâu rồi ?
Khi
treo cổ bằng sợi dây oan nghiệt
Em
nghĩ ǵ về đất nước mai sau
Chúng
ta có quá nhiều điều thua thiệt
Trách
chi em ước vọng đă phai màu
Hai chữ tự
do treo trên thánh giá
Tiếng kinh
cầu không đủ sáng vô minh
Em run sợ
nh́n loài người giương ná
Con chim non
trúng đạn chết vô t́nh
Một
chiếc lá vừa rơi trên nấm mộ
Thu
đă về rồi đó phải không em
Anh
chợt thấy bàng hoàng trong tuổi dại
Một
t́nh thương tha thiết sẽ không quên
Chúng
ta lớn với trăm điều mất mát
Tuổi
thơ qua theo dấu đạn bom cày
Quê
hương đó vẫn ch́m trong tiếng khóc
Vẫn
hận thù chồng chất xuống tương lai
Vĩnh
biệt em, người con yêu xứ Huế
Ngủ
đi em, đừng oán hận cuộc đời
Anh
đứng lặng nghe đau từ tim phế
Xin
thơ này lau vết máu em rơi.
Trần Trung Đạo
(Trịnh
Cuối Huôn sưu tầm và chuyển)