TÂM SỰ với
MÙA XUÂN
(Trần Trung Đạo)
Nhà tôi có trồng hai
cây mai trong chậu. Vợ tôi thích trồng vài cây cảnh
nhỏ trong nhà nhưng trồng gì cũng
khó sống ngoại trừ trồng mai. Khoảng mười năm trước khi đến
thăm Montreal,
nhà thơ Thủy Trang cho chúng tôi một
cây mai nhỏ. Cây mai chị cho nhỏ đến
nỗi tôi để ngay trước chỗ tay
lái mà cảnh sát biên giới cả Mỹ
lẫn Canada
đều không thắc mắc là cây gì mặc
dù luật mang cây trái sang biên giới rất
nghiêm khắc.
Cây mai lớn rất nhanh cho đến ngày
nọ một người bạn ghé chơi và
phán rằng Tết sắp đến nên nhặt
lá để cây mai trổ bông. Chúng
tôi dại dột nghe lời nhặt hết lá mai
dù nhiều lá vẫn còn xanh và thậm
chí còn non. Vài hôm sau cây mai chết.
Từ bài học cay đắng đó, sau
này khi mua cây mai khác từ vùng Florida nắng ấm,
chúng tôi để mặc mai chọn lựa thời
gian rụng lá và trổ bông bất cứ
lúc nào chúng thích. Công việc của
chúng tôi là canh chừng nhiệt độ, giữ
cho mai được đủ ánh sáng, mùa
hè đem ra sân, mùa đông đem vô
nhà, bón phân và tưới nước.
Năm nay cũng thế. Tôi không nhặt lá
nhưng tháng qua hai cây mai lần lượt tự
rụng lá, mọc lên những chồi non màu
tím và những nụ màu xanh. Nếu ở chợ
hoa nào đó trong nước hai cây mai
nhà tôi dù đem biếu không chưa chắc
có người nhận nhưng ở miền
Đông giá rét của nước Mỹ, chúng
được coi quý chẳng khác gì là
linh chi ngàn năm. Mai nở trong khung cảnh chẳng
có gì gọi là xuân. Mùa xuân ở
đây và cả bên nhà đều chưa
đến. Trời mới sắp vào đông. Boston lạnh sớm
hơn mọi năm. Nhiều đêm nhiệt độ
đã xuống đến mức đông
đá. Buổi sáng đoạn đường ngắn
từ nhà bước ra xe đã đóng
thành băng. Hôm nay chỉ mới cuối
tháng 11. Tháng 11 đối với tôi là một
tháng nhiều kỷ niệm. Tôi xem ngày 20
tháng 11 như là ngày lễ lớn vì
cách đây 27 năm, 8 giờ tối ngày 20
tháng 11 năm 1981, tôi đặt chân đến
thành phố “có tôi đây xa lạ”
nhưng nay trở thành thân thiết này.
Những năm trước rảnh rỗi hơn,
tôi thường dành ngày 20 tháng 11 để
lái xe về thăm con đường Parkvale ở
Allston, nơi bác Tôn Thất Ân, ngày
đó còn làm việc cho cơ quan bảo trợ,
đưa tôi về sống những ngày đầu
tiên với những người cùng cảnh ngộ.
Dù bác chỉ làm công việc của một
nhân viên, tôi cũng biết ơn bác
vì sau bao nhiêu chuyến đi xa của đời
mình lần đầu tiên có một người
đến đón. Khi có dịp đi lên
hướng bắc của thành phố, tôi thường
trở lại thăm con đường
Commonwealth. Con
đường có hai hàng hoa Mộc Lan xinh đẹp
thường được in trong các bưu thiệp
để giới thiệu về thành phố Boston. Đường Commonwealth
có trường đại học Boston, nơi tôi ghi danh học
môn ngôn ngữ điện toán đầu
tiên hết sức khó, đêm ngủ thường
chiêm bao thấy mặt ông thầy. Thời
đó, mỗi sinh viên dù chuyên ngành cũng
chỉ được xử dụng máy mỗi tuần
8 giờ ngoại trừ sau 11 giờ tối đến 5
giờ sáng. Những kẻ đánh máy theo kiểu
“nhất dương chỉ” như tôi thường
phải ngủ sớm để khuya thức dậy đi
làm bài. Trên
đường Commonwealth còn có trụ
sở của International Institute of Boston, cơ quan thiện
nguyện đã bảo trợ tôi trong những
ngày mới đến. Tôi cũng thích
ghé ngang qua công ty Teradyne, một công ty điện
tử quen thuộc với người Việt, nơi lần
đầu trong một buổi chiều mưa, tôi
đã gặp gỡ một người, sau này trở
thành vợ tôi. Những người quen, có
người còn người mất và những
con đường, căn nhà, hàng cây, qua mấy
chục năm đã thay hình đổi dạng
nhưng trong lòng tôi kỷ niệm vẫn màu
xanh. Kỷ niệm,
dù vui hay buồn, dù ngọt ngào hay cay đắng,
nếu biết chiêm nghiệm, cũng giúp thăng
hoa cho cuộc sống con người. Trời năm nay cũng
mưa nhiều hơn năm trước. Mưa
và mưa. Những cơn mưa lạnh kéo
dài suốt cuối tuần qua. Mưa nhiều đến
mức Thống Đốc tiểu bang Massachusetts phải tuyên bố
tình trạng khẩn cấp để phòng chống
lụt. Những chặng đường của đời
tôi đi qua cũng được đánh dấu
bằng những cơn mưa. Tôi rời làng
Mã Châu một mình khi còn rất nhỏ
và đêm đầu tiên ở Đà Nẵng
là một đêm mưa. Tôi vào Sài
Gòn trong một chiều mưa và đêm từ
giã Sài Gòn cũng trong cơn mưa lớn.
Và bao nhiêu cơn mưa khác. Mưa khi
lái xe rời thành phố có ánh trăng
mười sáu soi đường, mưa khi xa sân
trường trung học có hàng phượng vĩ,
mưa khi lần cuối đạp xe qua con đường
Duy Tân có bóng me xanh. Và bao nhiêu kỷ
niệm, dù một ngày, một năm hay một
đời, dù còn ở lại hay ra đi vội
vàng như những chiếc lá cuối thu, âm
hưởng của chúng vẫn còn vang trong
tâm hồn tôi bất tận.
Mưa làm tôi nhớ lại những cơn
mưa tuyết chào đón tôi 27 năm về
trước cũng vào cuối tháng 11 này.
Tôi quen đi và đến một mình
nhưng phải công nhận khi rời Manila để
đến Boston
là một trong những thay đổi lớn nhất.
Sáng 17 tháng 11 năm 1981, đại diện Cao Ủy
Tỵ Nạn phát cho chúng tôi mỗi người
một tờ giấy có ghi những chuyến bay
đi và đến. Tấm giấy của tôi
có ghi phi trường tôi sẽ đến bằng
chữ BOS. Tôi không hiểu đó là
đâu vì chưa quen với cách viết tắt
các phi trường Mỹ. Nhân viên Cao Ủy
giải thích trạm cuối cùng của tôi
là Boston.
Đứng trong góc phòng tôi nghĩ về
thành phố mang tên của một điệu nhạc
buồn. Boston
xa xôi quá. Phần lớn người trong
đoàn sẽ về California
nắng ấm vì họ có thân nhân.
Tôi thuộc diện “mồ côi”, hiểu
theo nghĩa tỵ nạn là không có thân
nhân ở Mỹ, sẽ đi về xứ lạnh.
Và như thế, đoàn người tỵ
nạn chúng tôi lên xe bus ra phi trường. Gia
tài của tôi, dăm bài thơ dang dở
và một bộ áo quần. Hôm rời trại
Palawan, tôi mang dép ra phi trường đi Manila. Một
người nhắc tôi nên lên chỗ Sơ
Pascal xin một đôi giày. Tôi không đi,
tự nghĩ Sơ còn phải lo chăm sóc cho
đám trẻ em, mình lớn rồi nên tự
lo liệu lấy. Ở Manila,
một người quen cho tôi một đôi
giày nhưng số nhỏ hơn bàn chân
tôi nhiều. Đôi giày chật chội
làm mấy ngón chân tôi chảy máu.
Và như thế, tôi tạm biệt trại Palawan
thân thương, tạm biệt thủ đô
Manila kỷ niệm, tạm biệt cảng Subic Bay nơi
chiến hạm White Plains có thể đang nhả neo,
tạm biệt đất nước Philippines với
lòng biết ơn bảo bọc, tạm biệt
Thái Bình Dương bao la nơi đồng
bào tôi đang lênh lênh trong dòng nước
đó và tạm biệt phương đông,
tôi mang thơ đi về phương tây bằng
đôi chân đang rỉ máu, theo cả nghĩa
đen lẫn nghĩa bóng. Không ai đưa tiễn,
như trong thơ Nguyễn Bính, tôi “một
mình làm cả cuộc phân ly”.
Ngồi trên máy bay mà lòng miên
man tưởng tượng những gì đang chờ
đón mình. Hồi còn nhỏ tôi nhiều
lần đi xa nhưng không ý thức hết sự
quan trọng của mỗi chuyến đi. Ngày
đó tôi đi như con chim nhỏ cuốn theo
dòng định nghiệp. Với đôi cánh
nhỏ nhoi và sức bay yếu ớt của
mình, tôi chỉ biết nương theo chiều
gió mà sống sót. Có khi đậu
trúng bãi cát nóng Sơn Chà, có
khi rớt xuống trại cây khô Đà Nẵng,
có khi rơi dưới gốc đa già ở Hội
An, nhưng dù ở đâu, trong hoàn cảnh
nào, tôi cũng đã cố gắng bay
lên để hót vang giữa núi rừng đầy
bất trắc.
Không phải bây giờ mà ngày
xưa cũng thế, không ai biết tôi một
mình. Tôi có con người của xã hội
và con người của riêng tôi, hòa hợp
và tương phản, im lặng và sôi nổi,
luôn cố gắng làm điều tốt nhưng
cũng phạm nhiều lỗi lầm. Tôi luôn sống
rất vui, rất lạc quan và rất yêu đời.
Tôi luôn tìm được những điều
tích cực ngay cả trong những hoàn cảnh
vô cùng tuyệt vọng như khi đứng
trên bờ kinh Chu Hải một buổi sáng
tháng 6 năm 1981 chẳng hạn. Nhưng bay đến
Boston
thì khác. Năm 1981 tôi đã ở tuổi
trưởng thành và ngọn núi đang chờ
tôi ở Boston
cũng cao hơn nhiều so với những ngọn
núi thời thơ ấu. Tôi không chỉ phải
chọn lựa cách vượt qua mà còn phải
vượt qua bằng con đường ngắn nhất
và nhanh nhất.
Sau 27 năm, ngọn núi vẫn còn
đó, thử thách vẫn còn đó, bao
nhiêu việc muốn làm vẫn chưa làm
xong, mơ ước thời tuổi trẻ vẫn
còn là mơ ước, nhưng ít ra,
nhân ngày đánh dấu 27 năm định
cư trên nưóc Mỹ, nhìn lại đời
mình, tôi nghĩ mình đã làm
được một vài việc có ích cho
xã hội, đã đi một đoạn
đường, đã gieo trên mảnh đất
cằn khô mà tôi đặt chân qua
vài hạt giống tôi tin là tốt cho
tương lai. Và tất cả những điều
tôi đã làm sẽ không thành nếu
thiếu đi một chất liệu căn bản.
Đó là tình người. Tình người trong những
ngày ở ngoài nước không bắt đầu
từ đâu xa mà ngay trong cộng đồng
tôi đang sống. Một cái bắt tay, một lời
chào, một lời an ủi, một tiếng cười
và nhiều khi cả những giọt nước mắt
chia buồn đã tạo trên xứ người
xa lạ này một góc quê hương.
Chúng tôi nương tựa vào nhau, gần gũi
nhau hơn cả những người thân thiết
trong gia đình. Đất nước nằm bên
kia trái đất xa xôi nhưng tình người
có ở khắp nơi và vô cùng gần
gũi. Khái niệm cộng đồng không phải
là khái niệm mới mà đã có
trong tự điển từ ấn bản đầu
tiên nhưng giá trị thật sự của
khái niệm nầy chỉ thể hiện trong sự
hình thành của cộng đồng người
Việt hải ngoại sau 1975.
Ở Boston trong những năm đầu thập
niên 1980, tôi biết có nhiều người
chuyên đi tìm trường dạy nghề,
các hãng xưởng, các lớp tiếng Anh
miễn phí hay những chỗ cho mướn nhà
rẻ để giới thiệu lại cho bà con
còn gặp khó khăn. Mỗi tuần chúng
tôi gặp nhau để nghe các anh chị
đó thông báo những tin tức họ vừa
tìm hiểu được. Họ không làm cho
cơ quan thiện nguyện nào cả nhưng chỉ
nhờ nói được tiếng Anh tốt hơn
nhiều người khác. Tôi cũng biết một
anh suốt nhiều năm trời đã tận tụy
với công việc đi đón người mới
đến, từ thế hệ vượt biên cho
đến các đợt HO sau nầy. Dù khuya khoắt
bao nhiêu, tuyết rơi ngập lối hay giá
rét căm căm anh vẫn đứng chờ trên
hành lang phi trường để mang đến cho
bà con vừa đặt chân xuống máy bay những
lời thăm hỏi đầu tiên vô cùng cần
thiết. Như bầy chim tránh bão, chúng
tôi đã nương tựa nhau mà sống
dưới tàn cây phong và sưởi ấm
đời nhau bằng que củi tinh thần.
Những đồng hương có lòng tốt
như thế không phải chỉ có ở Boston
mà chắc chắn cũng có ở Montreal, Toronto,
Chicago, San Jose, Santa Ana, Paris, Sydney, Berlin và khắp
nơi tại hải ngoại. Tên tuổi của họ
có thể không được vinh danh trong những
tiệc tùng sang trọng, không được
nêu trong danh sách của những anh hùng
làm rạng danh cộng đồng người Việt.
Không, họ không phải là những khoa học
gia có nhiều bằng sáng chế, những
trí thức học nhiều hiểu rộng, những
chủ công ty lớn, những dân cử được
bầu bán, những thương gia giàu có
nhưng nếu thiếu họ cộng đồng
chúng ta đã phải khó khăn vất vả
biết bao nhiêu. Con đường nào, đại
lộ nào cũng có tên nhưng của con
đường trưởng thành của cộng
đồng Việt Nam phải được mang tên họ,
những đồng hương Việt Nam làm việc
trong âm thầm nhưng đầy lòng nhân
ái.
Nếu không có tình cộng đồng
có thể tôi vẫn sống, cũng học ra
trường, cưới vợ, có con và đi
làm để xây dựng cho mái ấm cho
riêng của mình, nhưng tình cộng đồng
đã mang đến những điều tôi
không có. Tình cộng đồng là
mùa xuân của cuộc đời tỵ nạn,
đã giúp tôi mang cái riêng vào
cái chung, giúp tôi hiểu ý nghĩa giọt
nước mà tôi đang uống, chén cơm
mà tôi đang ăn. Tình cộng đồng
là nguồn suối của rất nhiều thơ
và văn tôi. Tháng 8 năm nay, tôi in một
cuốn sách mới nhưng cố ý dành
đến gần ngày kỷ niệm 20 tháng 11
để giới thiệu đến bà con Boston
trước khi đi giới thiệu vài nơi
khác. Như tôi có thưa với bà con
có mặt hôm đó, họ không phải là
độc giả hay là những người thưởng
ngoạn văn học nghệ thuật nhưng là một
phần trong đời sống tinh thần, là nội
dung và tâm hồn của cuốn sách tôi vừa
viết. Tôi đi nhiều nơi nhưng bao giờ cũng
muốn về lại Boston,
thành phố thân yêu nơi tôi sống
lâu hơn thời gian tôi đã sống ở
Việt Nam.
Không có đời sống tỵ nạn, hẳn
nhiên vẫn có tôi nhưng sẽ không
có Trần Trung Đạo, bút hiệu mà
tôi đặt cho bài thơ đầu tiên viết
ngoài Việt Nam.
Boston gắn liền với
tình cảm của tôi như một người
anh văn nghệ, nhà văn Trần Hoài Thư
có lần đã viết: “Con đường
Dorchester qua những tiệm ăn, tạp hóa Việt Nam. Và
một khu Việt. Và những gương mặt da
vàng. Và những lời trao đổi bằng tiếng
mẹ đẻ vang trên bãi đậu xe. Đời
sống vẫn bận rộn. Cõi lòng vẫn quay
quắt. Nhớ nhung vẫn bão bùng. Bạn hữu
mấy thằng trôi thất tán. Mấy thằng
đợi một chuyến đò ngang … Cái mẫu
số chung ấy là mẫu số của bất cứ
người tị nạn nào trong chúng ta …
Cám ơn Boston
với những con tim kỳ diệu. Nếu không
có những con tim này, tôi nghĩ, chắc chắn
sẽ không có Trần Trung Đạo”.
Thật vậy, có lần, sau khi bán căn
nhà ở Dorchester nhưng lại
không di chuyển về thành phố khác, vợ
chồng tôi phải đi tìm mua căn nhà mới.
Chúng tôi đến phía nam tiểu bang Massachusetts và
tìm được một căn nhà rất khang
trang nhưng giá cả phải chăng vì khá
xa thành phố. Trên đường lái xe về,
vợ tôi đoan chắc là tôi sẽ
không mua căn nhà đó, lý do đơn
giản vì xa cách với cộng đồng
người Việt Boston. Vợ tôi nói
đúng. Tôi không thể sống xa cộng
đồng Việt Nam.
Tôi chỉ có thể ở những nơi nào
mà trong vòng 20 hay 30 phút tôi phải
có mặt khi cộng đồng cần đến
tôi. Tôi không có phòng mạch ở
Boston, không có nhà hàng ở Boston,
không có văn phòng luật sư ở Boston
và tôi cũng chưa bao giờ đảm nhiệm
một chức vụ gì trong ban chấp hành cộng
đồng nhưng khi nghĩ đến cộng đồng,
tôi luôn nghĩ đó là cộng đồng
của tôi, giống như nhà tôi bây giờ
hay chùa tôi, cây đa thân thiết của
tôi ngày trước. Câu nói “Cộng
đồng của tôi” thể hiện một quyền
sở hữu nhưng không phải sở hữu
tài sản vật chất là một thứ sở
hữu tình cảm, một mối tình đã
gắn bó thủy chung với tôi suốt 27 năm
qua.
Cách nhà tôi khoảng 20 dặm về
phía nam là một thành phố nhỏ nhưng
rất nổi tiếng bởi vì đó là một
trong những trạm khởi hành của lịch sử
Mỹ, thành phố Plymouth.
Nhóm người đâu tiên đã trải
qua nhiều khó khăn nhưng ít ra họ hơn
cộng đồng người Việt một điều
là khi ngồi trên chiếc tàu Mayflower họ
biết rằng họ đang giăng buồm đến Mỹ.
Người Việt Nam thì khác, ra đi như chỉ
để ra đi. Khi đứng trên boong chiến hạm
USS White Plains nhìn biển cả mênh mông
và những cụm mây bay xa tít cuối
chân trời, tôi không biết đời
mình rồi sẽ ra sao. Tôi tin, ngoại trừ một
số ít có thân nhân, những người
ra đi như tôi đều chia sẻ một tâm
trạng buồn giống nhau như thế. Làm người
chỉ có một quê hương, vâng, nhưng
quê hương không bao giờ đủ nghĩa
và trọn vẹn nếu quê hương không
có tự do. Tôi thán phục câu nói của Tổng Thống Abraham Lincoln “Nơi nào có tự
do, nơi đó là quê hương
tôi” và từ
suy nghĩ đó tôi đi.
Không phải chỉ Boston
thôi, mà tôi tìm thấy tình người
trong tất cả những nơi tôi đã đến.
Nhiều mùa hè, tôi dành gần như tất
cả cuối tuần để đi đến các
thành phố lớn nơi có cộng đồng
Việt Nam và bạn bè tôi đang sống
như Orange County, San Jose, Atlanta, Washing DC, Seattle, Sacramento, San
Diego, Denver, Tampa, Miami, Chicago, Houston, Dallas, Montreal v.v. và ở
đâu tôi cũng tìm thấy sức sống mỗi
ngày thêm mạnh của cộng đồng người
Việt, một tình đồng hương đầm
ấm, thiết tha. Tôi đã đến với những
cộng đồng nhỏ đến mức vào
ngày Tết tập trung hết cũng chỉ có
vài chục gia đình như ở Cary, North
Carolina và tôi cũng đã đến với
những cộng đồng rất lớn có cả
hàng chục, hàng trăm nghìn người
như Santa Ana, San Jose, Houston, Dallas. Và dù ở đâu
tôi vẫn bắt gặp giòng suối tình
thương Việt Nam
đang chảy và hàng cây hy vọng mỗi ngày
một thêm cao lớn.
Tháng trước tôi trở lại thăm Atlanta. Mười
năm tôi mới có dịp ghé qua đó
một đêm. Trong chương trình thơ nhạc,
tôi vẫn còn được các chú
bác anh chị ở Atlanta
gọi một cách thân thương là
“nhà thơ trẻ”. Thật ra tôi
không còn trẻ nữa nhưng vì hầu hết
những người từng gọi tôi như thế
trong lần đọc thơ mười năm trước
cũng có mặt trong buổi chiều đọc
thơ lần nầy. Mái tóc họ bạc hơn
và những bước đi chậm hơn nhiều
nhưng họ vẫn giữ trong tâm hồn một
tình cảm và một hình ảnh mến
thương nguyên vẹn như trong lần đầu
tôi đã ghé thăm.
Ba mươi ba năm, từ những ngày đầu
tiên khi ánh mắt còn ngỡ ngàng, bước
chân còn ngần ngại, câu nói còn vụng
về, cộng đồng Việt Nam đã trưởng
thành về mọi phương diện. Những
siêu thị mỗi ngày một đông hơn,
thương xá rộng hơn, nhà cửa cao
hơn, xe cộ mới hơn. Hẳn nhiên, cộng
đồng Việt Nam
chưa phải là một cộng đồng tuyệt
vời, hoàn hảo như mỗi chúng ta có
thể đang mơ ước. Có những điều
chưa trọn vẹn, nhiều hiện tượng
tiêu cực và nhiều ước mơ chưa trở
thành hiện thực. Mồi khi lật trang quảng
cáo của một tờ báo, ở bất cứ
tiểu bang nào, ở bất cứ nước
nào, chúng ta cũng thầm tự hỏi phải
chi tất cả ông bà bác sĩ, nha sĩ,
dược sĩ, luật sư, thương gia đang quảng
cáo đầy kín tờ báo kia, dành một
ngày, một ngày thôi, để đến với
nhau trong lễ Giỗ Tổ Hùng Vương hay Tết
Dân Tộc thì cộng đồng chúng ta sẽ
đẹp hơn, sẽ mạnh hơn, sẽ ấm
cúng hơn biết bao nhiêu. Ngoại trừ một
số ít có tinh thần dấn thân, một số
khác đông hơn vẫn còn xa cách, vẫn
xem cộng đồng người Việt đơn giản
chỉ là những khách hàng không
khác gì người Hoa, người Mễ. Họ
quên rồi chăng ? Trong ký ức chưa phai của
những lưu dân vừa bỏ nước ra đi,
có họ trong những người từng sắp
hàng trước cơ quan an sinh xã hội để
lãnh tiền trợ cấp, có họ trong những
đoàn người chân ướt chân
ráo, lạc đường, lạc nẻo giữa phố
người. Hàng cây phong còn đó
nhưng bầy chim đã sớm bỏ nhau đi khi
mùa đông đến. Tôi mong có một
ngày họ sẽ đến, đúng ra là sẽ
trở về, để tìm lại chính mình
trong cộng đồng người Việt với tư
cách là thành viên của một đại
gia đình, nơi chính họ đã nhờ
đó mà thành công.
Không giống như các tình trạng rẽ
chia, hận thù và phân hóa thường thể
hiện qua những hiện tượng tiêu cực
trong đời sống hàng ngày mà ai cũng
dễ dàng nhận thấy, tình thương
là dòng suối mát nhưng nhiều khi chảy
rất âm thầm, như sáng nay trong nhà
tôi những búp mai xanh đã âm thầm nở
thành những cánh hoa vàng rực rờ.
Mùa xuân đang lần nữa qua đây.
Trần Trung Đạo
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)