Mùa Thu Cuộc Tình
(Tiểu Tử)
Lời Giới
Thiệu: Tiểu Tử
tên thật Võ Hoài Nam, sinh năm 1930 tại
Gò Dầu Hạ (Tây Ninh). Sau khi tốt nghiệp
trường kỹ sư Marseille (Pháp) năm 1955,
ông về Việt Nam dạy trường Petrus Ký
một năm rồi vào làm việc trong hãng
dầu Shell Việt Nam từ năm 1956 cho đến
ngày mất nước. Năm 1979, ông vượt
biên rồi định cư ở Pháp. Sau
đó, ông qua Côte d'Ivoire (Phi Châu) làm
việc cho Công ty Đường Mía của
Pháp (1979-1982) và qua làm hãng dầu Shell
Côte d'Ivoire cho đến lúc về hưu. Trước
1975, ông phụ trách mục biếm văn Trò
Đời của nhật báo Tiến với bút
hiệu Tiểu Tử, và tiếp tục dùng
bút hiệu này kể từ sau 1975. Trong dịp trả
lời phỏng vấn của Thư Viện Diên Hồng
vào cuối năm 2007, ông cho biết, đã
xuất bản tập truyện Những Mảnh Vụn
(2004), Bài Ca Vọng Cổ (2006), chuẩn bị tái
bản tập truyện Những Mạnh Vụn và sẽ
xuất bản cuốn thứ ba nhan đề Chị
Tư Ù . Truyện của ông trong sáng, giản
dị, gần gũi với đời sống đau
đớn của người dân Miền Nam dưới
chế độ VC kể từ sau 30-4-1975, nên đọc
truyện, ai cũng xúc động, không cầm
được nước mắt. Ông viết văn bằng
cả tấm lòng đôn hậu, thấm
đượm đạo nghĩa của một người
Việt yêu nước chống cộng, nên lời
văn nhẹ nhàng, tha thiết, lay động
nhân tâm, ngay cả với những người
đã lầm đường lạc lối theo VC.
Truyện ngắn vô cùng cảm động sau
đây của ông sẽ cho quý độc giả
thấy được những giá trị tuyệt vời,
những hạnh phúc cao cả, những phần
thưởng vô giá ... trong đời sống vợ
chồng, một khi hai người biết thuỷ chung
yêu thương nhau, quý trọng nhau, trọn vẹn
sống cho nhau ...
Bữa ăn trưa đó của
ông Năm thật giản dị: một trái
cà tô mát không dầu không dấm
và một miếng thịt bò nhỏ bằng
bàn tay nướng trên vỉ sắt không muối
không bơ. Quá giản dị ! Nhứt là
hôm nay thứ bảy, không phải đi làm.
Nghĩa là có dư dả thì giờ để
làm một món gì đó cho có vẻ
một bữa ăn cuối tuần. Cho nó khác với
ngày thường ăn vội ăn vàng cái
gì cũng được. Thật quá giản dị
! Nhứt là ông Năm sống một mình,
không bị phiền toái bởi những chuyện
vụn vặt lỉnh kỉnh phải làm vào cuối
tuần của người có gia đình. Ở
Paris này mà sống một mình như ông
Năm thì thời gian không biết phải
làm gì cho hết chớ đừng nói
không có thì giờ để làm một bữa
ăn cho tươm tất vào trưa thứ bảy.
Nói rằng ông Năm không biết làm bếp
cũng không đúng. Hồi xưa, hồi
còn ở bên nhà, thật tình ông
Năm không biết chiên một cái trứng
gà. Ông chỉ biết đi làm ngày hai buổi,
còn việc bếp núc có bà Năm lo hết.
Bây giờ thì khác. Ông cũng biết nấu
vài món thông thường và lâu
lâu cũng biết "làm" một nồi phở
để đãi đôi ba ông bạn già
cùng lứa tuổi và cùng thân phận
lưu vong …
Như bình thường
thì trưa thứ bảy, ông hay thả xuống
khu 13 la-cà ở nhà sách Khai Trí một
lúc rồi sang qua mấy cửa hàng nho nhỏ
trên lầu Paris Stores để coi có gì lạ
không. Sau đó, ông mới tấp vô tiệm
phở để ăn trưa, có khi một mình,
nhưng thường thì với một vài người
bạn gặp nhau ngoài phố. Ở khu 13 vào
trưa thứ bảy, không gặp người
này cũng gặp người nọ, bởi vì
ai cũng đến đó để mua đồ,
nói là "đi chợ Tàu" chớ thật
ra là để tìm lại một chút gì
hơi hướm của quê hương: những
khuôn mặt gần gũi (gặp ai cũng thấy
quen quen !), những món hàng còn giữ
nguyên nét cũ (đòn chả lụa vẫn
phải có màu xanh của lá, con vịt quay vẫn
phải đỏ au màu mật …) và những
cái tên chỉ cần đọc lên là
đủ để gợi nhớ … Hồi sáng
này, ông Năm cũng đã đóng bộ
để đi khu 13. Trời đã sang thu, nhưng nắng
còn thật ấm. Cây marronnier nhà hàng
xóm nằm ngay dưới cửa sổ nhà
ông Năm đã trở màu vàng. "Chắc
lá đã rụng đầy", ông Năm
nghĩ vậy khi đứng thắt cravate gần khung cửa
sổ. Chỗ ông cư ngụ là một studio nhỏ
ở lầu ba khu nhà cũ nằm sâu phía sau
nhà thờ Sacré Coeur. Cây marronnier che hết
phía dưới thành ra từ cửa sổ
nhà ông Năm nhìn thẳng ra chỉ thấy bức
tường cao của khu nhà đối diện chắn
ngang, chừa phía trên bầu trời bị
đóng khung hình chữ nhựt bởi hai dẫy
nhà dài. Trên nền trời đó, tuốt
phía xa, là nóc nhà thờ với cây
thánh giá. Thành ra, thế giới bên
ngoài nhìn từ phòng ông Năm chỉ
còn lại vỏn vẹn có cây thánh
giá để cái nhìn còn có một
điểm tựa ! Ông Năm theo đạo Phật,
nhưng từ ngày dọn về đây - năm
sáu năm gì rồi - cứ nhìn cây
thánh giá riết mà ông có cảm
tưởng như mình đã thành con
chiên của Chúa ! Nhiều khi ông thấy
cây thánh giá thật là sinh động.
Ông không hay rằng niềm suy tư của ông
đã gởi trên đó từ lâu ...
Có lần, trong thư gởi về Việt Nam cho
bà Năm, ông viết: "Anh thường
nhìn cây thánh giá đứng cao vòi vọi
một mình trên kia mà tự hỏi không
biết anh và cây thánh giá, ai cô
đơn hơn ai ? Nhưng cây thánh giá
hãy còn giang tay ngạo nghễ chớ anh thì
từ lâu rồi anh đã buông tay đầu
hàng số mệnh ! Tuy nhiên, ở đây anh
còn có cây thánh giá trước mắt
để hướng về đó mà cầu nguyện,
chớ ở bên nhà giờ đây muốn cầu
nguyện em phải hướng về đâu hả em
? Anh bỗng ứa nước mắt thương em
vô cùng … Ở ngay trong lòng quê
hương mà thiếu thốn đủ thứ,
đến nỗi điểm tựa cho niềm tin mà
còn không có thì em sống ra sao, em hả ?"
Đối với ông Năm, cây thánh giá
trên chót nhà thờ Sacré Coeur mặc
nhiên đã trở thành một vật gì
thật gần gũi, thật trần gian, thật người,
và là động cơ khơi nguồn kỷ niệm
…
Hồi xưa, ông làm việc
cho Air France ở Sàigòn. Đời sống rất thoải
mái, nhưng hai vợ chồng lại không có
con. Chạy thầy chạy thuốc mãi rồi mới
biết tại vì tử cung của bà Năm nằm
lệch. Điều này làm bà Năm
khóc hết nước mắt. Tuy nhiên, hồi
đó còn trẻ nên cũng dễ nguôi,
hai vợ chồng chẳng quan tâm cho lắm. Lần hồi,
tuổi đời chồng chất, sự không
có con đã trở thành một vấn đề
cho hai vợ chồng. Mặc dù ông Năm
không bao giờ nhắc đến chuyện
đó, bà Năm vẫn khơi ra để nhận
lỗi về mình. Mặc cảm đó làm
cho bà lúc nào cũng ân hận, áy
náy. Rồi cái gì hư, cái gì trật,
cái gì bậy ở trong nhà dù là do
lỗi những người giúp việc, bà cũng
nhận hết. Ông Năm phải mất một thời
gian dài để giải thích, khuyên lơn,
an ủi, bà Năm mới lấy lại đựơc
quân bình. Có hôm, trong lúc hai vợ chồng
đi dạo trên bãi biển Vũng Tàu,
nhìn thấy mấy gia đình đông con
đùa giỡn vui vẻ, bà Năm chợt thở
dài than:
- Nếu không phải tại em
thì bây giờ hai đứa mình đâu
có bơ vơ như vầy !
Ông Năm choàng tay ôm
vai vợ xoay người lại để nhìn
sâu vào mắt:
- Em
à ! Mình không có con, nhưng mình
còn có nhau. Đó là Trời thương
lắm rồi, em còn đòi hỏi gì nữa
? Thử tưởng tượng một ngày nào
đó không còn có nhau nữa thì sao ?
Bà Năm gật gật đầu
nhưng chẳng bao giờ tưởng tượng đến
"cái ngày không còn có nhau"
đó. Vậy mà cái ngày đó
đã đến cho ông bà Năm. Hai năm
sau ngày mất nước, trong chuyến vượt
biên ở Cà Mau, ông Năm đi thoát,
bà Năm bị bắt lại với một số
người không may khác ! Ông Năm sang
Pháp, làm việc lại cho hãng Air France.
Bà Năm nằm tù hết mấy tháng.
Được thả ra thì nhà cửa
đã bị tịch thu, đành về quê ở
Gò Công làm công nhân cho nhà máy
xay lúa của gia đình mà trong đợt
đánh tư sản đầu tiên, VC đã
tịch thu để biến thành hợp tác
xã. Từ đó, là những chuỗi
dài thương nhớ, là những lo âu dằn
vặt, là những lá thư nhiều ẩn nghĩa
cho đúng "văn phạm Nhà Nước".
Còn chuyện vượt biên lần nữa
là chuyện mà bà Năm không bao giờ
dám nghĩ đến ! Bên này, ông Năm
chạy mãi rồi cũng được giấy nhập
cảnh cho bà gởi về, nhưng phía bà
Năm thì gặp quá nhiều khó khăn trong
hồ sơ xin xuất cảnh, cứ bị kéo
dài, kéo dài bằng những chầu chực,
bằng những lời hứa hẹn suông và bằng
mấy lần bị lường gạt … Để
cuối cùng, mấy năm sau, mới biết là
hồ sơ đã bị bác từ lâu ! Tin
đó đến với ông Năm bằng tờ
giấy tập học trò vàng như giấy
súc mà trên đó bà Năm chỉ
còn đủ sức viết có mấy hàng
… Vậy là vĩnh viễn không còn
có nhau nữa ! Ông Năm mất tinh thần hết
một thời gian dài. Sau đó, dọn về
khu phố này tình cờ cửa sổ mở về
hướng nhà thờ Sacré Coeur, để mỗi
sáng trước khi đi làm ông nhìn
cây thánh giá một lúc, giống như một
tín đồ ngoan đạo …
Khi ông Năm mặc xong quần
áo thì trời cũng đã gần trưa.
Đốt điếu thuốc để lên môi,
ông đóng cửa bước chậm rãi xuống
cầu thang, giống
như đo từng nấc thang một ! Thật ra, tại
tánh ông Năm vốn đã trầm thêm
tuổi đã gần sáu mươi bắt
ông phải cẩn thận khi bước lên bước
xuống. Ngoài ra, có gì phải vội phải
gấp khi mà chẳng có ai đợi ai chờ ?
Đi khu 13 vào trưa thứ bảy đã
thành một thói quen, chẳng có gì phải
náo nức. Bỗng nhiên, ông Năm nhận thấy
cuộc đời mình sao thật vô vị. Giống
như tờ giấy trắng mênh mông trải
dài, thẳng băng, chẳng có một dòng
mực, chẳng có một đốm màu, cũng
chẳng có một vết hoen ố. Hình ảnh
đó làm cho ông Năm dừng lại ở
giữa cầu thang, ngẩn ngơ một lúc như vừa
khám phá ra một điều gì quá
rõ rệt nằm ngay trước mắt mà sao
lâu nay ông không nhận thấy ! "Mình
đi làm đều đặn. Mỗi tuần xuống
khu 13 cũng đều đặn vào trưa thứ bảy.
Mỗi tối thứ hai đi ciné một lần
vì giá vé hạ. Đêm nào cũng
coi télé vào 8 giờ tối để theo
dõi tin tức, rồi đọc sách đọc
báo đến 11 giờ rưỡi là tắt
đèn ngủ. Đều đặn. Đều đặn.
Đến như cái cầu thang này, mình cũng
đều đặn trèo xuống trèo lên
đến nỗi biết nó có bốn
mươi tám nấc ! Vậy rồi thôi ! Rồi
cứ như vậy cho tới về hưu, tới chết
!" Ông Năm hít hơi thuốc thật sâu
để thở khói ra thật dài. Ông
làm mấy lần như vậy, giống như
đang tìm một đáp số ! Rồi ông vỗ
nhẹ bàn tay lên thành lan can gỗ, tự nhủ
"Thôi ! Đừng nghĩ tới nữa".
Ông tiếp tục bước xuống, nhưng
bây giờ sao thấy bước chân nặng
hơn hồi nãy nhiều …
Khi đi qua trước phòng
gác gian, có tiếng gọi:
-
Ông Georges ! Ông Georges !
Georges cũng là tên của
ông Năm. Người Pháp phát âm Năm
thành Nam, nghe lơ lớ chói lỗ tai, nên
ông lấy đại tên Georges cho dễ gọi dễ
kêu. Bà gác-dan bước ra trao cho ông một
điện tín, nói:
-
Vừa mới tới. Tôi định lên
nhà đưa cho ông thì ông xuống
đây.
Ông Năm run tay mở bức
điện tín. Giòng chữ ngắn ngủn hiện
lên nhảy múa: "Đã có xuất cảnh.
Lo vé máy bay cho em. Mai". Điếu thuốc
trên môi bỗng rơi xuống đất. Ông
Năm có cảm giác như mình đang
lên cơn sốt. Ông đọc lại điện
tín một lần nữa, hai tay phải gồng cứng
lại mới kềm được tờ giấy đứng
yên căng thẳng dưới mắt. Ông nói
cho mình nghe: "Đúng rồi ! Bả được
xuất cảnh rồi !"
Bà
gác-dan nghiêng đầu lo lắng:
- Có sao không ?
Có chuyện gì không ? Ông Georges ?
Tiếng bà
ta lôi ông Năm về thực tại. Ông
nhìn bà ta, mỉm cười, rồi nắm lấy
tay bà ta lắc mạnh:
- Cám ơn bà !
Cám ơn bà nhiều ! Tôi thật không biết
nói gì cho phải. Bà thật tốt bụng
! Quá tốt bụng ! Cám ơn ! Cám ơn !
Giọng ông
thật thành khẩn, làm như chính bà
đã cho giấy xuất cảnh! Bà ta không
hiểu gì cả, vừa ngạc nhiên vừa buồn
cười trước thái độ của ông
Năm. Bà ấp úng trong lúc ông Năm
buông bà ra để chạy lên cầu thang:
- Nhưng mà …
Nhưng mà …
Nửa chừng,
sực nhớ ra, ông dừng lại nghiêng người
nói với xuống:
- Điện tín của
vợ tôi ở Việt Nam. Bả nói bả sẽ
qua đây ở với tôi ! Cám ơn !
Cám ơn nhiều !
Rồi ông
phóng lên cầu thang, nhảy hai bậc một,
nhanh như sóc, nhẹ như hươu. Làm
như ông mới có hai mươi tuổi !
Vào
phòng, ông ngả người lên giường,
thở hổn hển. Cái tuổi hai mươi bất
thần tìm lại chỉ đủ giúp ông
trèo hết bốn mươi tám nấc thang
thôi ! Một lúc sau, ông cầm điện
tín lên, đọc lại một lần nữa. Thật
rõ ràng mà ! Đây nè, hàng chữ
không bỏ dấu "Da co xuat canh. Lo ve may bay cho em.
Mai". Đọc là hiểu ngay ! Còn Mai là
tên của bả rồi, chớ còn ai vô
đây nữa ! Cái tên dễ thương
mà mình đã thương từ mấy chục
năm, không còn lộn với ai được. Vậy
là chỉ còn có vé máy bay nữa
là xong.
Ông nhỏm
người lên nhìn tấm lịch tháng treo gần
đó để thấy rằng mình bỗng
quên mất hôm nay là thứ bảy ! Vậy phải
đợi thứ hai mới vào sở lo vụ
này được. Ông lại nằm xuống. Dễ
thôi ! Nhờ thằng
Durand đánh cái télex là xong ngay. Ờ…
nhưng mình cũng phải gởi cái điện
tín về cho bả mừng. Tội nghiệp!
Không biết ai chạy lo cho bả cái xuất cảnh,
chớ bả thì lo khỉ gì được với
cái tánh hiền khô và nhát hít của
bả. Nghĩ đến đó, ông Năm bỗng
thấy thương vợ vô cùng. Cái người
đàn bà hiền khô và nhát hít
đó đã về làm vợ ông từ
hơn ba mươi năm, trước sau như một,
theo chồng như một cái bóng. Ngoài chuyện
không có con, chẳng thấy bao giờ bà
làm bận tâm ông. Con nhà giàu ở Gò
Công, học ở Marie Curie, vậy mà cô
gái có cái tên Trần thị Lệ Mai
đó đã có một quan niệm sống thật
cổ điển, thật Á đông. Và khi trở
thành bà Trần văn Năm, luôn luôn
bà đối xử với bên chồng thật
vuông tròn và xem việc nội trợ như một
thiên chức ! Hồi xưa, bạn bè vẫn
nói là "thằng Năm trúng số độc
đắc" hoặc "đẻ bọc điều mới
có người vợ như vậy". Ông
thì nghĩ rằng tại vợ mình hiền
khô và nhát hít nên chẳng dám
làm phiền ai bao giờ. Có lẽ nhờ vậy
mà ai cũng thương … Ông lại nhỏm
dậy nhìn tấm lịch. Trên đó ông
có ghi bằng marker đỏ con số 10 to bằng nửa
bàn tay ở góc trái. Vậy mà cũng
đã mười năm xa nhau ! Mỗi năm mua lịch,
mình ngồi nắn nót viết con số lên
đó giống như người tù bị
lưu đày ghi số năm mà mình biệt
xứ. Có khác là người tù còn
biết ngày được thả chớ còn
mình thì mù tịt. Đã tưởng vĩnh
viễn sống một mình rồi … chết cũng
một mình trên đất lưu vong này,
nào ngờ Trời còn thương mình nhiều
quá !
Ông ngồi hẳn
dậy đốt điếu thuốc, khói thuốc
thật thơm thật ngọt. Vậy mà cũng
đã mười năm xa nhau ! Mười năm
… lâu lắm chớ ! Vậy mà sao vẫn thấy
còn thương còn nhớ. Lạ quá ! Có
phải như vậy người ta gọi là chung thủy
hay không ! Rồi ông nhìn quanh. Nhà cửa
thiệt là lượm thượm, phải dọn dẹp
lại coi cho nó được một chút. Vậy
là ông đứng lên đẩy ghế, đẩy
bàn, quên mất là mình còn mặc bộ
đồ lớn để đi khu 13 và làm
như bà Năm sắp qua tới bây giờ ! Vừa
làm vừa nói một mình, lâu lâu
ông ngừng lại hít một hơi thuốc thật
sảng khoái. Hai cái fauteuils này cho sát
vào tường, kê gần nhau để cùng
ngồi coi télé. Cái télé nằm
đó được rồi. Cái bàn ăn
nhích qua một chút để có chỗ
kéo cái nệm dưới gầm giường ra.
Bả trên giường, mình dưới đất,
tạm ổn trong khi chờ đợi kiếm nhà
khác rộng hơn. Cái tủ búp phê
đẩy tới một chút là nằm ngang với
bàn ăn. Mẹ nó ! Coi vậy mà cũng nặng
ớn ! Ông đứng lên thở hổn hển,
nhìn quanh. Bây giờ coi có nét rồi
đó. À ! Cái màn cửa sổ, phải
tháo xuống đem giặt, cho nó
"sáng" ra mới được.
Rồi ông
vào buồng tắm thay đồ. Đồ đạc
ở đây thì sạch sẽ rồi, khỏi lo.
À ! Còn cái tủ quần áo ở
bên phòng ngoài nữa. Phải thu gọn lại
cho có chỗ để bả để quần
áo chớ ! Ông bỗng phì cười.
Làm như mình sắp cưới vợ vậy ! Mà
thiệt ! Sau mười năm xa cách, gặp lại
nhau cũng giống như cưới nhau lần nữa chớ
gì ! Ông soi gương chải lại tóc.
Tóc mình mới có mấy sợi bạc
thôi. Mặt mũi hãy còn "nét" lắm,
ai mà nói mình sắp sáu mươi ? Cô
dâu qua đây thấy chú rể như vầy
là nhìn … rớt con mắt ! Ông Năm bỗng
nghe lòng vui rộn rã, giống như tâm trạng
ngày xưa, thuở còn trẻ, lúc sửa soạn
đi đến nơi hẹn với người con
gái tên Trần thị Lệ Mai ...
Vậy là
trưa thứ bảy này ông Năm không thấy
đói! Tuy vậy, cũng phải "bỏ bụng"
một cái gì,vì thói quen hơn là
vì nhu cầu. Ông mở tủ lạnh lấy một
trái cà tô mát và một miếng thịt
bò. Cà xắt khoanh, không dầu không dấm,
thịt nướng trần trên vỉ sắt
không muối không bơ. Làm cho "lấy
có" và ăn cũng cho "lấy
có". Bởi vì tâm hồn ông đang mải
phiêu bồng ở đâu đâu xa lắm,
hình như là ở Gò Công quê vợ,
ở Gia Định quê mình, ở những
ngày đầu "hai đứa gặp nhau" (những
ngày đó, tiếng nói của tình
yêu là một chuỗi dài im lặng !), ở
rạp hát bóng Đại Nam là nơi
"hai đứa hẹn hò" (Dù trời
mưa anh cũng tới. Em nghe không ?), ở
Đà Lạt ít lâu sau đó ... Chao
ôi ! Đẹp quá ! Dễ thương quá !
Tình yêu là cái gì mà sao mãi
mãi vẫn còn nguyên, như mới hôm qua
hôm kia …
*
Ông Năm
lái xe lên phi trường Charles de Gaulle lần
này là lần thứ hai. Hồi sáng,
đã lên đó một lần, đợi cả
tiếng đồng hồ để được
thông báo là chuyến bay Air France từ
Thái Lan qua sẽ đến trễ gần tám tiếng.
Nhờ là nhân viên của hãng nên
ông Năm được biết là máy bay bị
trục trặc kỹ thuật ở Karachi. Trở về
sở làm, ông ngồi đứng không
yên, lâu lâu cứ nhìn đồng hồ. Bạn
bè trong sở thấy vậy thương hại, mỗi
người một câu an ủi trấn an. Có
người ngồi lại gợi chuyện tán
dóc cho ông đỡ thấy sốt ruột. Có
người đặt tay lên vai ông bóp mạnh:
- Georges ! Đợi chờ
nhau mười năm mà mày còn chịu nổi
huống gì chỉ có mấy tiếng đồng
hồ nữa thôi. Can đảm lên chớ !
Vậy rồi thời
gian cũng qua, chiều cũng xuống, để ông
Năm lái xe đi phi trường, lòng náo nức
xôn xao trong sự đợi chờ kỳ diệu. Vào
phi trường, ông gắn thẻ nhân viên
lên ngực áo rồi đến quầy Air France hỏi
thăm. Mô phật ! Lần này máy bay sẽ
đến đúng giờ.. Hai cô tiếp viên
trong quầy không quen ông Năm nhưng thấy
đeo thẻ Air France, nên cũng hỏi đẩy
đưa:
- Ông chờ
đón bạn à ?
Ông mỉm
cười, vừa bước đi vừa trả lời:
- Không ! Tôi
đón nhà tôi. Chào hai cô.
Phi trường
giờ này nhiều chuyến bay cùng đến một
lúc nên người đi kẻ lại tấp nập.
Ông Năm ngồi uống cà phê, hút thuốc,
nhìn thiên hạ. Ông thấy ai cũng dễ
thương hết ! Ông muốn họ uống với
ông một tách cà phê, hút với
ông một điếu thuốc lá. Cà phê
expresso thật ngon. Khói thuốc Dunhill thật ngọt.
Tâm hồn ông Năm được trải rộng
mênh mông…
Lại nghĩ
đến bà Năm. Bả "điệu" lắm
! Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Tóc
lúc nào cũng chải gọn về phía sau rồi
cuốn thành một vòng kẹp lại phía
trên ót, thành ra khuôn mặt trái soan
và cái cổ tròn lúc nào nhìn cũng
rõ nét. Còn về quần áo thì bả
chẳng bao giờ mặc loại có màu sắc sặc
sỡ loè loẹt, luôn luôn hoặc đen hoặc
xanh đậm và nếu có bông thì cũng
phải tiệp màu với nền vải và
hình dáng phải nhã nhặn, nho nhỏ
tương xứng với tầm vóc của bả. Hà
! Bả hiền khô và nhát hít vậy
mà về vấn đề ăn mặc bả
khó dàng trời ! Người ta nói bả
có "gout". Mình cũng nghĩ như vậy,
nhưng nếu bả không có thân hình
đều đặn cân đối thì không
biết cái "gout" để vào đâu
cho nó nổi ! Ông hít một hơi thuốc
dài sảng khoái. Hồi đó sao mà
mình mê bả quá, nhứt là đôi
bàn tay có ngón thon dài sang trọng và
cặp mắt đen to như mắt đầm làm
cho cái nhìn của bả lúc nào cũng
có vẻ như ngạc nhiên. Điều lạ
là sau này khi đã đứng tuổi, bả
vẫn còn giữ nguyên đường nét thời
con gái. Thành ra lắm khi nhìn bả, mình
muốn trêu chọc bằng câu "Gái
không con mà nom cũng mòn con mắt",
nhưng vì sợ bả buồn nên mình
nín thinh luôn !
Ông Năm ngừng
suy tư trên hình ảnh đẹp của bà
vợ, mỉm cười vu vơ. Lại hút thuốc,
lại nhìn thiên hạ. Hớp cà phê cuối
cùng đã nguội ngắt mà sao vẫn
còn thấy ngon lạ lùng. Bỗng ông bật
cười. Sau bảy mươi lăm, sống với Việt
Cộng mà bả vẫn tiếp tục "điệu"
như thường ! Trong lúc người ta lôi quần
áo cũ rách ra bận và để mặt mũi
tóc tai lôi thôi lếch thếch cho có
"tác phong cách mạng" thì bả vẫn
gọn ghẽ sạch sẽ như thường, vẫn
chút đỉnh má hồng, chút đỉnh
son, vẫn quần dài áo ngắn tươm tất,
mặc dù phải đạp xe đi làm công
nhân ở tổ may thêu xa bảy tám cây số.
Mình hay trêu chọc bả bằng câu nói
của Việt Cộng "Song chân lý ấy vẫn
không bao giờ thay đổi", bả cười
không nói. Vậy mà có hôm, bả trả
lời bằng một câu… xanh dờn:
"Đàn bà phải biết tự trọng. Làm
như mấy bà cách mạng tóc tai xủ xộp,
quần áo xốc xếch rộng rinh hoặc ngắn
ngủn như mặt đồ khín, em làm
không được" …
Có tiếng
nhạc chuông dìu dặt, tiếp theo là giọng
bổng trầm của cô tiếp viên thông
báo chuyến bay Air France số AF 199 đến từ
Thái Lan đã đáp xuống sân bay. Ông
Năm đứng lên trả tiền, xong đi
vào phía trong qua ngả văn phòng trực của
hãng. Ông nghe lòng vừa náo nức vừa
hồi hộp giống như ngày xưa khi đứng
chờ xem kết quả thi tú tài ! Ông ra
đón tận cổng vào. Có hai chuyến bay
đến từ hai nơi khác nhau nhưng đổ
hành khách xuống cùng một lúc,
nên sân bay đầy người. Giữa cái
lao xao lộn xộn đó, ông Năm nghểnh cổ
tìm vợ trong luồng người thoát ra từ
cổng F, cổng của chuyến bay Air France. Ông
nhìn từng khuôn mặt, từng người.
Ông nhìn, ông chớp mắt để nhìn
cho rõ hơn. Những gương mặt Á đông
phờ phạc. Những gương mặt Á
đông hốc hác. Những gương mặt
Á đông xanh xao. Ông nhìn, ông chờm
tới, nhích tới để nhìn. Bả dễ
nhìn lắm. Lúc nào cũng sạch sẽ gọn
ghẽ. Lúc nào cũng điệu. Trong
đám đông, bả nổi hơn người
ta nhờ nước da trắng hồng của
gương mặt trái soan và đôi mắt lớn,
cho nên dễ nhận ra lắm. Không phải
bà này. Bà này già quá cũng
không phải. Bà này coi ngờ ngợ nhưng
đi chung với bầy con nít, không phải bả.
Ông nhón chân lên để cái nhìn
được đưa ra xa thì tai thoáng nghe
hình như có tiếng người gọi nhỏ:
"Ông Năm !" Ông vẫn tiếp tục
nhìn từng người, từng khuôn mặt. Lại
có tiếng người gọi nhỏ, lần
này tiếng gọi lạc đi:
- Ông Năm …
Nghe rõ
có tiếng ai gọi mình, ông nhìn lại.
Ngay phía trước, đứng cách ông chỉ
mấy bước, người gọi ông là một
bà già tóc muối tiêu hớt bom bê ngắn
như mấy bà Tàu Chợ Lớn, mặc
áo len nâu rộng thùng thình, ống tay
dài phủ mất hai bàn tay đang xách mỗi
bên một túi vải. Chỉ mới nhìn tới
đó thôi, linh tánh bắt ông nhìn lại
gương mặt: khuôn mặt gầy sạm nắng
với những nếp nhăn trăng trắng ở
khoé môi và đuôi mắt. Ngần
đó thứ giống như miếng cau khô, chỉ
trừ có hai con mắt là sinh động, là
mở to như có vẻ ngạc nhiên, là
nói lên, là nhắc nhở, là …
là… Trời ơi ! Là vợ tôi
đây mà ! Ông Năm nghẹn ngào bước
tới, hai tay đưa về phía bà già
và chỉ còn đủ sức gọi có một
tiếng: "Mai !" Ông ôm lấy vợ mắt
nhắm nghiền đau đớn. Tội nghiệp ! Người
vợ chỉ dám gọi chồng bằng hai tiếng
"Ông Năm !" như người xa lạ,
và chỉ dám gọi có hai lần. Và khi
chồng nhìn ra mình, ôm chầm lấy
mình, người vợ đó chỉ còn
nói được bằng nước mắt !
Ông Năm
buông vợ ra để nhìn lại lần nữa.
Ông nghe nghẹn lời và nghẹn cả
lòng. Ông chỉ còn nói được bằng
hai bàn tay … Hai bàn tay vuốt làn tóc
bạc bây giờ sao quá thẳng quá ngắn.
Hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt bây giờ
sao không lấp đầy hai lòng bàn tay. Hai
bàn tay đặt xuống bờ vai bóp nhẹ.
Dưới lớp áo len, ông cảm rõ
nét gầy của bờ vai bây giờ. Bây giờ
… Hồi đó … Từ trong sâu thẳm của
lòng ông, nỗi đau khổ tột cùng bỗng
bật lên thành tiếng, một thứ tiếng
nói lệch lạc méo mó vì uất nghẹn:
"Sao vầy nè ?" Rồi, không kềm chế
nổi nữa, không cần giữ gìn ý tứ
gì nữa, trong cái rừng người xào xạc
đó, ông ôm lấy vợ, ngửa mặt
lên trời thét lên một cách thống
thiết: "Sao vầy nè… Trời ?" Tiếng
"Trời" nặng trĩu thoát ra từ
lòng ngực ông như tất cả sinh lực
trong người được trút ra hết … Rồi
ông ôm lấy vợ, nước mắt ràn rụa.
Bà Năm cũng khóc nhưng vẫn không
buông rời hai cái túi vải. Hơn mười
năm sống với Việt Cộng, đã trở
thành một bản năng: nắm chặt, giữ chặt
những gì còn thuộc về mình, những
gì mà "tụi nó" chưa kịp chiếm
lấy, cướp lấy !
Một lúc
lâu sau, phải một lúc lâu sau, ông
Năm mới lấy lại bình tĩnh. Ông
nói:
- Thôi mình về
đi em !
Tiếng
"em" thật tự nhiên, thật nhẹ
nhàng. Tiếng "em" mà đã mười
năm, bà không còn nghe thấy ! Bà cắn
môi để kềm xúc động, nhìn chồng
mà đuôi mắt nheo lại mỉm cười. Bà
nghe một cái gì mát rượi đang len
vào lòng, một cái gì đã
làm rơi mất từ hơn mười năm,
bây giờ mới tìm gặp lại. Mãi đến
bây giờ, ông Năm mới thấy trong
đôi mắt vợ, nét cũ ngày xưa: to
tròn như mắt đầm, tròng đen lay
láy. Đôi mắt đó đang nhìn
ông, cái nhìn ngời lên như muốn
nói thật nhiều … Ông cúi xuống
định xách hai túi vải. Bà Năm lắc
đầu:
- Để em xách !
Tiếng
"em" cũng thật tự nhiên thật nhẹ
nhàng. Giọng nói thật dịu dàng, trong trẻo.
Làm như nước mắt đã tẩy sạch
dấu vết của mười năm … Ông
vói tay cầm lấy quai túi:
- Để anh xách cho.
Bà Năm vừa
bước đi, vừa nói, tay vẫn nắm chặt
hai túi vải:
- Không sao. Em xách
được. Ở bển, em gánh lúa mỗi
ngày cho nhà máy, có sao đâu.
Ông Năm
bỗng nghe lòng quặn thắt. Thì ra "tụi
nó" đày đọa bả đến nước
đó ! Bả tội gì ? Tội gì ? Tội
vượt biên? Thì đã ở tù
trên ba tháng rồi còn gì nữa ? Vậy
tội gì ? Ông Năm nghiến cái căm
thù trong răng để đừng chửi đổng,
nhưng rồi ông cũng bật ra:
- Quân khốn nạn !
*
Về đến
nhà thì trời đã xâm xẩm tối. Lần
này thì chính ông Năm xách hai
túi vải, đi trước dẫn đường,
lòng vui như mở hội. Đến chân cầu
thang, ông nói:
- Ở từng lầu ba lận.
Em leo nổi không ?
Bà Năm
trả lời, giọng vẫn trong trẻo:
- Gì không nổi ?
Bây giờ em làm cái gì cũng nổi hết.
Rồi bà
bước lên cầu thang, bước đều
đặn. Ông Năm theo sau, nhìn dáng dấp
nhỏ thó với mái tóc bạc hớt
bom-bê cao ông bỗng thương vợ vô
cùng. Mười năm … Mái tóc huyền
mà ngày xưa hay kéo sát về phía
sau để cuốn tròn kẹp gọn một
vòng trên ót… bây giờ chỉ
còn là như vầy ! Cái cổ tròn dẫn
xuống bờ vai thon thon của hồi đó …
bây giờ gầy nhom như vầy ! Mười
năm … Chắc bả phải khổ ghê lắm,
phải chịu đựng ghê lắm mới ra
nông nỗi này ! Tội nghiệp ! Người
đàn bà hiền khô và nhát hít
đó chưa làm phiền lụy ai bao giờ, vậy
mà Việt Cộng vẫn moi ra một cái cớ
nào đó để hành hạ. Và
như vậy suốt mười năm. Lam lũ quá
nên bả già trước tuổi, chớ bả cũng
còn giữ được cái nhìn, giọng
nói và tâm hồn … những thứ
mà Việt Cộng không cưỡng chiếm được
!
Vào
nhà, ông Năm bật đèn lên, bà
Năm nhìn quanh mỉm cười, không nói. Ông
Năm đặt hai túi lên bàn ăn, rồi
cũng nhìn quanh:
- Nhà của anh
đó. Nhỏ như cái lỗ mũi. Tạm một
thời gian rồi mình sẽ kiếm nhà
khác rộng hơn.
Bà Năm
dịu dàng:
- Như vầy cũng
được. Có hai đứa mà gì…
Bỗng
nhiên hai người nhìn nhau. Tiếng "hai đứa"
nhắc cho họ nhớ tới hoàn cảnh bây giờ,
một hoàn cảnh mà từ lúc gặp lại
nhau bao nhiêu thống hận dập dồn đã
làm họ quên đi: bây giờ "hai đứa"
vẫn còn có nhau, thật sự còn có
nhau. Rồi sẽ không còn gì chia cách. Rồi
sẽ đi bên nhau, đi hết đoạn đường
còn lại, một đoạn đường
không còn bao nhiêu xa … Bởi vì họ
biết: họ đang bước vào mùa thu của
cuộc đời … Cho nên họ nhìn nhau
mà yêu thương dâng đầy trong mắt.
Bà Năm
bước lại cửa sổ. Ngoài xa trên nền
trời trắng đục, hiện lên thật
rõ cây thánh giá và nóc nhà thờ
Sacré Coeur. Bà Năm hỏi:
- Cây thánh giá
này đây ?
Câu hỏi
trống không nhưng hai người cùng hiểu:
cây thánh giá mà ông Năm viết
đi viết lại không biết bao nhiêu lần
trong thư gởi về Việt Nam. Ông bước lại
khoác vai vợ, gật gật đầu. Hai người
yên lặng nhìn cây thánh giá như
đang tạ ơn, giống như đang rước lễ,
giống như cô dâu chú rể sau khi
được kết hợp thành vợ chồng
… Thời gian bỗng như dừng lại, để
hình ảnh trở thành bất diệt, nói
lên cái cao cả của tình yêu, cái
huyền diệu của niềm tin … những thứ
mà Việt Cộng muốn xoá bỏ để biến
con người thành gỗ đá. Một lúc
lâu sao, bà Năm như sực tỉnh:
- Để em soạn
đồ ra.
Rồi bà
bước lại bàn mở hai túi vải. Ông
Năm đốt điếu thuốc, khói thuốc
lâng lâng nhẹ. Ông ngồi cạnh giường
nhìn vợ soạn đồ bằng đôi
bàn tay sạm nắng với những đường
gân nổi lên ngoằn ngoèo. Đôi
bàn tay đã từng có ngón tay thon
dài khéo léo từ đường kim mũi
chỉ … bây giờ là như vậy ! Ông
thấy thương vợ vô cùng. Bà Năm
soạn đồ ra để trên bàn: vài bộ
quần áo, mấy cái khăn lông, một
cái mền nhỏ … Vừa làm bà vừa
nói:
- Có bao nhiêu, em
đem theo hết. Nói là đi chánh thức
chớ không biết lúc nào tụi nó bắt
mình lại. Có nhiều người lên
máy bay rồi mà còn bị lôi xuống,
không biết vì cớ gì. Rồi khi được
thả ra là trắng tay.
Bà lấy
trong túi ra một khuôn hình, trao cho ông
Năm:
- Em đem hình ông
già bà già qua để lâu lâu
mình thắp một cây nhang.
Ông Năm
nhìn hình cha mẹ, lòng bồi hồi
xúc động. Hình này, hồi đó,
để trên bàn thờ nhà cũ. Nhà bị
tịch thu, không hiểu bả làm sao lấy
được để mang qua đây ? Ông đứng
lên nhìn quanh, rồi treo khuôn hình lên
cây đinh trên tường đối diện.
Có tiếng
bà Năm nói:
- Em có đem qua cho anh
chai rượu nếp than nữa. Nhớ hồi
đó anh ưa lắm.
Ông quay lại,
cầm chai lên mở nút. Chưa đặt miệng
chai lên mũi mà mùi rượu ngọt
ngào thơm phức tỏa ra thật nồng nàn
.. Ông hít một hơi dài, đóng
nút lại, rồi nhìn chai rượu mà ứa
nước mắt. Nỗi nhớ quê hương nằm
sâu trong tiềm thức, bây giờ, mùi rượu
nếp than, màu rượu nếp than đã
làm bật dậy, vô cùng mãnh liệt. Ông
tưởng chừng như vừa hửi thấy mùi
thơm quê hương. Có mùi ngọt ngọt
của lúa chín, có mùi nồng nồng của
rơm của rạ, có mùi hăng hăng của
đống un đốt cạnh chuồng trâu chuồng
bò … Ông tưởng chừng như đang giữ
trong tay một mảnh trời quen thuộc. Ở
đó có màu tím lờn lợt của
hoa bằng lăng, có màu tím nâu nâu của
vỏ măng cụt, có màu tím học
trò của trái mồng tơi, và những
tà áo tím phất phơ theo gió qua cầu,
với những chiều tím quê ngoại, đứng
ngẩn ngơ bên sông Vàm Cỏ khi tuổi vừa
mới lớn … Chao ơi ! Ngần đó thứ,
tưởng quên nhưng vẫn nhớ. Ngần
đó thứ bây giờ xa thật xa.. Xa, không
phải vì cách biệt, mà xa vì không
còn thuộc về mình nữa !
Ông Năm
cầm chai lắc lắc, bột nếp than tím
ngát dợn lên trong lòng chai. Ông mở
nút rót thẳng vào miệng một hớp.
Chất rượu béo ngậy ngọt ngào cay cay
nhắc ông nhớ những quán nhậu ở
Hóc Môn, những món thịt rừng ở
Biên Hoà, những con cá mú sữa kho tộ
ở Vũng Tàu bãi sau bãi trước… Ông
ngậm lấy hớp rượu để nghe rõ chất
rượu đang thấm vào nướu răng,
đang thấm vào các thớ thịt cổ,
đang thấm lên nóc giọng, đang nồng
lên mũi. Ôi ! Mùi vị quê hương
là đây … ông không cầm được
nước mắt !
Bà Năm
vẫn âm thầm soạn đồ đạc. Bà
hiểu ông Năm lắm và nghe thương chồng
vô cùng. Tội nghiệp ! Mười năm xa
quê hương …
Ông Năm
vào phòng tắm rửa mặt rồi ra chỉ chỗ
cho vợ xếp quần áo. Xong ông bảo:
- Anh đã làm sẵn
mấy món ăn cho hai đứa. Để anh đem
ra hâm. Em đặt bàn đi. Đồ đạc
trong tủ búp phê đó.
Bà Năm
nghi ngờ:
- Anh mà làm bếp
cái nỗi gì ? Mua ở tiệm thì có.
Ông Năm
cười sảng khoái:
- Em lầm rồi ! Bây
giờ, anh làm cái gì cũng được hết.
Nấu bếp, giặt đồ, làm ménage …
đủ thứ. Rồi em coi ! À … đặt
bàn em nhớ để một dĩa sâu cho
món súp légume và một dĩa trẹt cho
món gà nấu rượu, nghe !
Bà Năm
mỉm cười, thấy chồng sung sướng
mà lòng cũng thênh thang trải rộng. Một
lúc sau, hai vợ chồng ngồi vào bàn
ăn. Trên bàn cũng có hai cây nến. Cũng
khăn trải bàn trắng phau, cũng khăn ăn
màu xám lợt, cũng dĩa trắng chạy chỉ
vàng, cũng nĩa dao cán gỗ có nét vẽ
cong cong nhè nhẹ. Và không quên hai ly rượu
có chân, đựng chút rượu nếp
than có màu tím đậm đà và
hương thơm mời mọc. Ông vui vẻ:
- Như vầy mới
đúng là nuit de noces chứ, phải không em ?
Bà Năm
nhìn chồng không nói, nhưng vành tai bỗng
đỏ bừng. Bà nói lảng:
- Súp ngon chớ ! Anh học
nấu ở đâu vậy ?
Ông để
ngón tay trỏ lên môi, vẻ bí mật:
- Hùm… Không
nói đâu ! Ông Tiên người Tàu
chuyên nấu đồ Tây chỉ đó, dặn
anh đừng nói cho ai biết !
Rồi cả
hai cùng cười vì hình ảnh ngộ nghĩnh
đó, cái cười hồn nhiên tìm lại
sau mười năm xa nhau …
Bữa ăn
kéo dài bằng những chuyện kể cho nhau
nghe, nhớ đâu kể đó, không mạch
lạc đầu đuôi, bởi vì trong thời
gian mười năm có biết bao nhiêu sự việc
đã xảy ra làm sao mà nhớ cặn kẽ
cái nào sau cái nào trước ! Dọn dẹp
xong thì trời đã khuya. Hai vợ chồng chia
nhau, bà nằm trên giường, ông nằm
trên nệm dưới đất. Tắt đèn
đã lâu mà hai người vẫn còn trằn
trọc. Làm như còn thèm nói chuyện
với nhau nữa ! Bóng tối dầy đặc
vây quanh. Không khí trong nhà êm êm mát mát.
Mùi rượu nếp than và mùi thuốc
lá Dunhill còn phảng phất thơm thơm. Bỗng
bà Năm nghe một bàn tay của chồng đặt
lên mình mình. Toàn thân bà run
lên nhè nhẹ. Hơi thở của bà bỗng
trở nên phập phồng. Một cảm giác
dường như thật cũ, mà cũng dường
như thật mới, dìu dịu ngây ngây
… Bà không biết nữa ! Rồi, không tự
chủ được, bà cầm bàn tay chồng
áp lên má, lên mũi, lên môi.
Bàn tay này tưởng đã vĩnh viễn
không còn nhìn thấy, cầm lấy. Da thịt
này tưởng đã vĩnh viễn không
còn đụng chạm sờ mó được.
Mười năm … Mười năm … Nước
mắt bỗng chảy dài xuống hai bên tai,
bà Năm thốt lên nho nhỏ: "Mình
!" Chỉ có một âm đơn độc,
nhưng sao tiếng "mình" nói lên thật
nhiều, diễn tả thật nhiều. Tiếng
"mình" mà mười năm nay ông
Năm không còn nghe. Tiếng "mình" gợi
lên tình nghĩa vợ chồng, nỗi niềm
chia xẻ. Tiếng "mình" cũng là tiếng
nói của yêu đương, của hài
hòa sum họp. Và tiếng "mình" ở
đây, trong hoàn cảnh này, sao nghe thật mời
mọc dâng hiến … Người đàn
bà mười năm khổ hận đó, vợ
ông, cần được yêu thương thật
nhiều để bù lại. Tiếng
"mình" gọi nhỏ trong đêm bỗng
nghe tiếp nối … Bồi hồi xúc động,
ông Năm chồm lên ôm lấy vợ, hôn
tràn lên tóc, lên má, lên môi.
Ông nghe trong tay, thân xác gầy còm của
vợ run lên như đang cơn sốt. Và tai
ông còn nghe những tiếng "mình"
đứt quãng ú ớ như tiếng nói
trong chiêm bao …
Cuộc tình của tuổi
vào thu âm thầm như lá rụng bên
ngoài nhưng cũng nồng nàn ngọt lịm
như hớp rượu nếp than cùng chia nhau khi
nãy. Có mùa chớm thu nào mà
không thấy còn sót lại vài tia nắng
hạ ?
*
Tôi muốn câu chuyện
này chấm dứt ở đây cho cuộc
tình được đẹp như bài thơ,
được vuông tròn như trong tiểu thuyết.
Nhưng trên thật tế không phải như vậy.
Bởi vì … Một tháng sau đó,
bà Năm ngã bịnh, phải vào nằm
nhà thương. Bà bị ung thư phổi, ở
thời kỳ chót. Bà đã giấu ông
Năm lâu nay, bây giờ bà mới cho biết:
hồi còn ở Việt Nam, nhờ khám thấy
ung thư nên bà mới xin được chiếu
khán xuất cảnh. "Nhà nước Cách
Mạng vốn khoan hồng nhân đạo, nên cho
phép chị sang thăm chồng đấy ! Chớ chị
không nằm trong diện được cứu
xét nào cả. Rõ chưa ?" Gã
cán bộ trao giấy phép cho bà Năm,
mà nói như thật ! Tụi nó dư biết
rằng có giữ bà lại cũng chỉ tốn
gạo tốn khoai thêm vài tháng nữa
và là một miệng ăn phi sản xuất, chẳng
lợi lộc gì cho "nhân dân". Thà
tống đi gấp để khỏi phải chôn
thêm một người, chật đất !
Ông Năm đã ngồi bên
giường vợ suốt thời gian cuối cùng.
Ông đã cầm bàn tay còn mang tỳ vết
của mười năm gian khổ. Ông đã
ôm gương mặt phong trần chưa kịp đổi
hồng sau mấy tuần sống đầy hạnh
phúc. Và cuối cùng, ông đã chải
lại mái tóc bạc chưa kịp dài để
được cuốn tròn kẹp lên sau ót,
như ngày xưa …
Ông đã gục lên
thân xác gầy khô, khóc với tất cả
nước mắt còn lại.
Mùa thu đó, lá rụng
thật nhiều.
TIỂU TỬ
(Đỗ Thị Minh Giang
sưu tầm và chuyển)