TÁC GIA? & TÁC PHÂ?M [tt]

Home | HUY PHU'O'NG | HUY PHU'O'NG [tt] | HUY PHU'O'NG 1 | HUY PHU'O'NG 2 | HUY PHU'O'NG 3 | HUY PHU'O'NG 4 | HUY PHU'O'NG 5 | HUY PHU'O'NG 6 | HUY PHU'O'NG 7 | HUY PHU'O'NG 8 | HUY PHU'O'NG 9 | HUY PHU'O'NG 10 | HUY PHU'O'NG 11 | HUY PHU'O'NG 12 | HUY PHU'O'NG 13 | HUY PHU'O'NG 14 | HUY PHU'O'NG 15 | HUY PHU'O'NG 16 | HUY PHU'O'NG 17 | HUY PHU'O'NG 18 | HUY PHU'O'NG 19 | HUY PHU'O'NG 20 | HUY PHU'O'NG 21 | HUY PHU'O'NG 22 | HUY PHU'O'NG 23 | HUY PHU'O'NG 24 | HUY PHU'O'NG 25 | HUY PHU'O'NG 26 | HUY PHU'O'NG 27 | HUY PHU'O'NG 28 | HUY PHU'O'NG 29 | HUY PHU'O'NG 30 | HUY PHU'O'NG 31 | HUY PHU'O'NG 32 | HUY PHU'O'NG 33 | HUY PHU'O'NG 34 | HUY PHU'O'NG 35 | HUY PHU'O'NG 36 | HUY PHU'O'NG 37 | HUY PHU'O'NG 38 | HUY PHU'O'NG 39 | HUY PHU'O'NG 40 | HUY PHU'O'NG 41 | HUY PHU'O'NG 42 | HUY PHU'O'NG 43 | HUY PHU'O'NG 44 | HUY PHU'O'NG 45 | HUY PHU'O'NG 46 | HUY PHU'O'NG 47 | HUY PHU'O'NG 48 | HUY PHU'O'NG 49 | HUY PHU'O'NG 50 | HUY PHU'O'NG 51 | HUY PHU'O'NG 52 | HUY PHU'O'NG 53 | HUY PHU'O'NG 54 | HUY PHU'O'NG 55 | HUY PHU'O'NG 56 | HUY PHU'O'NG 57 | HUY PHU'O'NG 58 | HUY PHU'O'NG 59 | HUY PHU'O'NG 60 | HUY PHU'O'NG 61 | HUY PHU'O'NG 62 | HUY PHU'O'NG 63 | HUY PHU'O'NG 64 | HUY PHU'O'NG 65 | HUY PHU'O'NG 66 | HUY PHU'O'NG 67 | HOÀNG LONG HA?I | HOÀNG LONG HA?I [tt] | HOÀNG LONG HA?I 1 | HOÀNG LONG HA?I 2 | HOÀNG LONG HA?I 3 | TIÊ?U TU'? | TIÊ?U TU'? [tt] | TIÊ?U TU'? 1 | TIÊ?U TU'? 2 | TIÊ?U TU'? 3 | TIÊ?U TU'? 4 | TIÊ?U TU'? 5 | TIÊ?U TU'? 6 | TIÊ?U TU'? 7 | TIÊ?U TU'? 8 | TIÊ?U TU'? 9 | TIÊ?U TU'? 10 | TIÊ?U TU'? 11 | TIÊ?U TU'? 12 | TIÊ?U TU'? 13 | TIÊ?U TU'? 14 | TIÊ?U TU'? 15 | TIÊ?U TU'? 16 | TIÊ?U TU'? 17 | TIÊ?U TU'? 18 | TIÊ?U TU'? 19 | TIÊ?U TU'? 20 | TIÊ?U TU'? 21 | TIÊ?U TU'? 22 | TIÊ?U TU'? 23 | TIÊ?U TU'? 24 | TIÊ?U TU'? 25 | TIÊ?U TU'? 26 | TIÊ?U TU'? 27 | TRÂ`N NGUYÊN -DÁN | TRÂ`N NGUYÊN -DÁN [tt] | TRÂ`N NGUYÊN -DÁN 1 | TU'O'?NG NA(NG TIÊ'N | TU'O'?NG NA(NG TIÊ'N [tt] | TU'O'?NG NA(NG TIÊ'N 1 | TU'O'?NG NA(NG TIÊ'N 2 | TU'O'?NG NA(NG TIÊ'N 3 | TU'O?NG NA(NG TIÊ'N 4 | TU'O'?NG NA(NG TIÊ'N 5 | TU'O'?NG NA(NG TIÊ'N 6 | TU'O'?NG NA(NG TIÊ'N 7 | TU'O'?NG NA(NG TIÊ'N 8 | TU'O'?NG NA(NG TIÊ'N 9 | TU'O'?NG NA(NG TIÊ'N 10 | TU'O'?NG NA(NG TIÊ'N 11 | TRÂ`N TRUNG -DA.O | TRÂ`N TRUNG -DA.O [tt] | TRÂ`N TRUNG -DA.O 1 | TRÂ`N TRUNG -DA.O 2 | TRÂ`N TRUNG -DA.O 3 | TRÂ`N TRUNG -DA.O 4 | TRÂ`N TRUNG -DA.O 5 | TRÂ`N TRUNG -DA.O 6 | TRÂ`N TRUNG -DA.O 7 | TRÂ`N TRUNG -DA.O 8 | TRÂ`N TRUNG -DA.O 9 | TRÂ`N TRUNG -DA.O 10 | TRÂ`N TRUNG -DA.O 11 | TRÂ`N TRUNG -DA.O 12 | TRÂ`N TRUNG -DA.O 13 | TRÂ`N TRUNG -DA.O 14 | TRÂ`N TRUNG -DA.O 15 | TRÂ`N TRUNG -DA.O 16 | TRÂ`N TRUNG -DA.O 17

HOÀNG LONG HA?I [tt]

Hai Bà Trưng, Hai Bà Triệu

 

Hai Bà Trưng, Hai Bà Triệu

(Hoàng Long Hải)

 

 

Khi về trại Suối Máu, mỗi tối chúng tôi đều được xem TV. Đời tù buồn tẻ, được xem TV, dù chỉ là tuyên truyền, nhiều người cũng thấy vui.

 

Cứ hai ba đội chung tiền nhau mua một cái TV, dĩ nhiên TV cũ, giá rẻ. Tuy cũ, nhưng TV cũng còn tốt, ít khi xảy ra “sự cố” bất thường nên cũng không đến nỗi bực mình. Nếu TV có nổi chứng, chỉ lằn ngang lằn dọc thì có “Hoàng chấm phết”, chuyên viên của chúng tôi sửa chữa. Qua bàn tay rành rọt của anh, TV lại hoạt động bình thường. Gọi là “Hoàng chấm phết” vì anh bị thương ở một chân nên đi đứng không bình thường.

 

Bộ đội dành một gian trong các gian nhà tôn để làm nơi xem TV. Nhờ đó, dù trời mưa, chương trình xem TV cũng không có gì trở ngại.

 

Cái TV để ở đầu gian nhà, trên một cái kệ cao, quay mặt về hướng trống. Dĩ nhiên phòng xem TV không có ghế. Mỗi người đi xem tự đem theo một cái đòn hoặc một cái ghế xếp tự mình đóng lấy hay của ai cho. Có người khéo tay, đóng một cái ghế xếp nhưng có lưng dựa, ngồi dựa ngửa mà xem cũng thoải mái chán. Cơm chiều xong, điểm danh xong, bảy giờ tối chương trình TV bắt đầu thì anh em tụ lại phòng TV để xem. Có khi vào đó thì người ta ngồi dầy đặc, nhất là ở những chỗ tốt, vừa tầm xem và nghe được rõ. Có anh đến sớm hơn nhưng nhiều khi người ta đã đặt ghế, đặt đòn dày đặc để xí phần.

 

Khoảng mùa hè năm 1976, sau khi “Hội Nghị Hiệp Thương Thống Nhất” họp ở rạp Rex Saigon xong màn trình diễn, đội bóng tròn Tổng Cục Đường Sắt ở Hà Nội vào Saigon đá trận đầu tiên để “mừng thắng lợi”. “Mừng thắng lợi” là do quản giáo nói như thế, và trại cho phép mở TV để xem đài truyền hình Saigon trực tiếp chiếu cho xem trận đấu. Dân ghiền bóng đá bắt đầu bàn tán xôn xao, nhiều ông làm thầy bàn, làm tham mưu. Có người nói:

- “Xem làm mẹ gì ! Làm sao mà Saigon thắng được Hà Nội, có chỉ thị rồi. Cái gì xã hội chủ nghĩa cũng “ưu việt”. Đã ưu việt thì miền Bắc không thể thua miền Nam. Coi làm gì cho bực mình.”

Lê Thành Công, bạn tôi, nói đùa:

- “Cứ coi việc đi ỉa cũng đã thấy ưu việt rồi. Ỉa xong còn hốt đem bón rau. “Hiện đại” lắm đó nhá.”

 

Tuy có người nói thế nhưng cũng lắm người xem. Mới cơm trưa xong, “Hoàng chấm phết” đã loay hoay dời TV ra cửa giữa bên hông nhà, hướng TV ra khoảng sân trống giữa hai gian nhà. Người ta đoán chắc là trận nầy, anh em xem TV đông lắm. Đưa TV ra cửa hông để rộng chỗ anh em ngồi xem. Một số anh em khác thấy chỗ đặt TV chói nắng bèn lấy hai ba cái poncho nối lại với nhau làm màn che cho tối bớt, dễ thấy hình trên TV hơn.

 

Ba giờ chiều trận đấu mới bắt đầu nhưng mới hơn 1 giờ, chỗ sân bóng xem TV đã dày đặc người và đòn, ghế. Có người đặt ghế rồi, nhưng vẫn không yên tâm sợ người ta dời mất chỗ bèn ra ngồi ngay chỗ cho yên tâm. Người lui tới nói cười xôn xaọ Ồn ào nhứt là đại úy Trương Văn Tuyên. Ông nầy người Bắc di cư, trước kia, khi còn mang “lon” trung úy, đã có thời làm quận trưởng một quận ở Quảng Ngãi, đánh nhau với Việt Cộng khá dữ, “nợ máu”, - nói theo theo kiểu Việt Cộng -, cũng không ít; nói theo kiểu người miền Nam thì anh ấy là “anh hùng diệt Cộng”. Ông nầy thuộc loại bạo phổi, học tập không chịu “giác ngộ”, hễ nói tới Việt Cộng thì anh ta đả kích ào ào, đếch sợ thằng ăng-ten nào cả. Giữa sân xem đông người, anh ta cứ oang oang.

- “Coi thì coi nhưng tao chắc chắn là đội Quan Thuế không được thắng. Có lệnh rồi đó, hễ thằng nào đá lọt banh vào “gôn” tụi Hà Nội là có giấy gọi đi học tập cải tạo ngay. Đ.m. Ngu hay sao mà thắng để rồi đi ở tù.”

Có người góp ý, giả bộ hỏi để anh ta nói nghe cho vui:

- “Trận nầy có Tam Lang. Ông liệu Tam Lang có dám đá hết mình như thường lệ không ?”

Giọng Tuyên cứ oang oang:

- “Dám ! Thằng nầy đứng tiền vệ hay lắm. Nhưng trận nầy, bọn Bắc Kỳ đem banh xuống, nó đứng qua một bên mà nói “Xin mời ông đá vào “gôn” dùm chúng cháu.”

Có người nói:

- “Tụi nó là Bắc Kỳ ! Còn mày là gì ! Bắc kỳ cục chắc !”

Mọi người cười ồ !

Tuyên cố giải thích:

- “Tao đâu có Bắc Kỳ mầy. Tao là… “Rân Ri Cư”. Anh ta cười nói đùa.

Nguyễn Hoàng Trương, dân Bình Định, cùng đội với tôi, nói thật to cố ý cho mọi người nghe:

- “Nó là cam Bố Hạ thành bưởi Biên Hòa rồi.”

Thiên hạ lại cười.

 

Khi vào trận được ít phút, đội Đường Sắt đem banh xuống, Tam Lang ra chận, lại hỏng, Trương Văn Tuyên la toáng lên:

- “Đ.m. thằng Tam Lang. Thấy không ! Thấy không ! Nó đâu có dám chận banh. Có chỉ thị rồi !”

Bên đội Đuờng Sắt, có Điểm, mang số 7, chạy biên khá nhanh. Anh ta đem banh xuống nhanh bên cánh trái, ai nấy hồi hộp, lại nghe Trương Văn Tuyên la to lên:

- “Chặt giò thằng ấy đi. Thằng đó nguy hiểm lắm.”

 

Vừa nghe, anh em vừa cười vì những câu nhận xét của “nhà bình luận bóng đá chống Cộng Trương Văn Tuyên”. Đá càng lâu, người xem càng thấy chán vì trận đấu không cân sức, coi như một bên thì đá thẳng cẳng, đá bạo, ăn hiếp, đá kiểu “chém đinh chặt sắt”, một bên thì bị trói chân mà còn sợ gọi đi “cải tạo”. Sự việc diễn ra lộ liễu quá khiến người ta thấy khó chịu, bất mãn. Số nhà bình luận gia bóng đá kiểu Trương Văn Tuyên càng lúc càng đông, khiến cho chỗ ngồi xem càng thêm ồn ào như cái chợ. Khi có một đường banh Saigon bị thua hay mất banh một cách vô lý thì nhiều tiếng ồ đồng loạt vang lên kèm theo những tiếng chưởi tục.

 

Tới 5 giờ trận đấu kết thúc, Saigon thua một bàn. Mọi người chán nản ra về, uể oải, mệt mỏi và buồn bực. Đâu đâu cũng nghe những lời bình luận khách quan có, chủ quan cũng có nhưng không thiếu khôi hài. Xem một trận banh, sự dàn xếp có tính chính trị hiện ra một cách trắng trợn. Điều ấy chạm đến lòng tự ái của người miền Nam, những kẻ thua trận, cộng thêm với thân phận tù, người ta thấy qua đó, ngày về xa hơn, buồn hơn.

 

Cũng tại cái sân đó, sau khi mọi người ra về hết, trở thành nơi anh em đội tôi ngồi ăn chiều mỗi ngàỵ Trong bữa ăn, dư âm trận đấu bóng đá vẫn còn, nhiều anh em lại bàn bạc sôi nổi. Tôi đang ngồi ăn chung với Nguyễn Thụy Hiền, nói to cho nhiều anh em cùng nghe:

- “Đ. m. Con tau sau nầy nhứt định tau không cho nó làm cầu thủ đá banh.”

Trần Phú Trắc, ngồi cách tôi hơi xa, nói:

- “Bộ anh thấy đá banh như hồi chiều nên anh chán chớ gì ?”

Tôi cười:

- “Đâu phải lý do chính trị. Ông coi có thằng cha nào đá banh mà người ta gọi bằng anh hay bằng ông không. Giữ “gôn” hay là thằng Rạng, tiền vệ hay là thằng Tam Lang, tiền đạo hay là thằng Đức, thằng Vinh. Có ai gọi ông Tam Lang, ông Rạng đâu. Tau đâu có muốn người ta gọi con tau bằng thằng.”

Mọi người cùng cười.

Họa sĩ Nguyễn Uyên nói:

- “Ông không đá bóng, người ta cũng gọi ông là thằng điện chạm vậy !”

Mọi người lại cười to.

Hiền nói:

- “Vậy nhưng mấy ông ấy là thần tượng của đám trẻ con đó. Mấy chả đi đâu, bọn trẻ chạy theo rần rần. Đứa nào nắm tay anh Rạng yêu mến của chúng được một cái là tối ấy nằm ngủ mơ.”

Tuyên cười, hỏi:

- “Ông cũng từng nằm mơ hay sao mà ông rành vậy ?”

 

Một hôm, TV chiếu vở tuồng “Cô gái và người lái xe”, Tú Trinh đóng vai cô gái. Xem phim, tôi dè chừng Trần Phú Trắc chưa quên người cũ, bèn nói đùa với Trắc:

- “Bữa nay không có Khả Năng nên không có ai ôm Tú Trinh mà run nữa nghe !” (1)

Trắc trả lời tôi, cười mà như mếu:

- “Thôi mà anh ! Phận mình bây giờ là tù rồi !”

Tự nhiên tôi thấy buồn, nói với Trắc và Hiền:

- “Hai tiếng phận tù làm người ta đau lòng lắm ! Bao nhiêu tình đời tới một chữ tù thì coi như 99 phần trăm “thuyền ra cửa biển”.

 

Lại một hôm xem vở tuồng “Gánh Cỏ Sông Hàn”. Vốn không thích cải lương, nhưng chúng tôi tối tối đi xem TV để giết thì giờ. Hôm sau, đi cuốc đất ngoài suối, phía trước cổng trại Suối Máu để trồng rau muống, chúng tôi vừa gom cỏ đem đốt, vừa nói đùa với nhau: “Bữa nay “Gánh Cỏ Sông Hàn” nha !”

Trung úy Đoan, quản giáo, người dẫn chúng tôi đi cuốc đất nói:

- “Các anh nói “Gánh Cỏ Sông Hàn” là nói con ngựa không quên chủ cũ chứ gì ?!?”

Chúng tôi nhìn nhau, không nói gì. Trên đường về, Trắc đi bên cạnh tôi, lúc trung úy Đoan ở xa xa, bèn nói:

- “Anh thấy không ! Mình thì nói chơi mà tụi cán bộ Cộng Sản thì sâu sắc vậy đó.”

Chương rồng (2) cười cười ý nhị:

- “Thiếu sâu sắc chính trị cũng là một lý do để mất nước đó ông ơi !”

 

Sau khi hái rau đợt 1 (Cộng Sản gọi là thu hoạch), Chương Rồng, tổ trưởng, biểu chúng tôi cuốc vào bên hông gốc rau rồi cạy vừa cho gốc rau vừa bị bứng nhẹ lên một chút, xong hạ gốc xuống và tưới nước lên. Quản giáo Đoan hỏi tại sao làm như thế, Chương Rồng giải thích:

- “Cuốc cho rễ rau bị đứt một chút thôi. Vì đứt, rễ rau sẽ mọc rễ mới, như cành cây bị chặt nó sẽ nẩy ra chồi mới vậy. Nhờ thêm rễ, rau sẽ mọc mạnh.”

Nghe giải thích, quản giáo Đoan phải nói: “Các anh thông minh thật ! Tôi làm nông nghiệp nhiều nhưng chưa nghe ai lý luận như anh.”

 

Tới ngày hôm sau nữa, đang tưới rau thì có lệnh tập trung về sớm. Quản giáo Đoan phát hiện anh Quang nhân khi đi tưới rau hôm nay, đã trốn trại. Trong khi chúng tôi tập trung chuẩn bị ra về, quản giáo Đoan đi dọc bờ suối hy vọng Quang có núp vào bờ suối nào đó không. Chương Rồng thấy vậy, nói:

- “Thằng Quang nó không ngốc như anh bộ đội nầy đâu. Nó lên xe lam đi Biên Hòa lâu lắm rồi, khi tụi mình còn cuốc rau kia.”

 

Quang, dân Trinh Sát Dù, đâu có trốn trại theo kiểu quản giáo Đoan nghĩ. Anh ta chuẩn bị khá kỹ. Sáng hôm nay, đi tưới rau, trời hơi lạnh, Quang mặc hai áo. Trong là cái áo trắng, ngoài áo trận. Vừa mới tản hàng, Quang xin “đi ngoài” bên kia suối. Một chốc, anh ta lại xin “đi ngoài” lần thứ hai. Lúc nầy, ai cũng lo làm việc. Quản giáo Đoan đang theo dõi chúng tôi cuốc đất. Quang từ bên kia suối, đi thẳng ra hướng Quốc lộ 1. Gần tới nơi, anh ta cởi cái áo trận dấu dưới bụi lau rồi bước ra bên đường, xe lam Hố Nai-Biên Hòa trờ tới, anh ta nhảy vội lên xe, như một người khách đi đường. Xe chạy mất. Thế là xong. Vài anh em thấy Quang trốn, chận xe, lên xe rõ ràng nhưng không ai hô hoán, chờ tới khi trên đường về trại mới kể cho nhau nghe !

Gần tới trại, khi quản giáo ở phía sau khá xa, Chương giải thích:

- “Dân biệt kích. Tụi nó học biết bao nhiêu khóa, trải qua bao nhiêu trận, mấy bộ đội lớ ngớ nầy, bị qua mặt dễ như không !”

 

Có khi trên chương trình TV mấy ông Việt kiều, phần đông ở Pháp, về thăm quê hương nói chuyện với đồng bào. Ông nào giọng điệu cũng giống nhau, cũng “nhân dân ta anh hùng”, “đảng ta vinh quang”, “kiên cường đánh Pháp, đuổi Mỹ”, v.v…

 

Hôm ấy, có ông họa sĩ Lê Bá Đảng, quê ở Quảng Trị, nghe nói rời đất nước hồi còn trẻ, đi lính Tây, lính thợ gì đấy; ngày xưa, khi tôi còn nhỏ thấy người ta gọi là lính ONS (Ouvrier-Non-Special). Ông họa sĩ Lê Bá Đảng cũng lên TV, ca ngợi Cộng Sản, ca ngợi nhân dân ta, v.v… Ông ta nói:

- “Nước ta có nhiều anh hùng như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Hai Bà Trưng, Hai Bà Triệu…”

Có lẽ ông ta lịu miệng mà nói Hai Bà Triệu chớ không đến nỗi dốt mà cho rằng lịch sử có tới những Hai Bà Triệu.

Nguyễn Thụy Hiền ngồi bên tôi thật thà hỏi:

- “Anh Hải, anh dạy sử địa biết nước ta làm gì có hai bà Triệu ?”

Thầy đồ Nho Trần Hưng (3), dân “Bình Định hay lo”, đại úy, nói đùa:

- “Có chớ sao không. Anh Hải dạy sử nhưng có biết đâu. Nầy, hai bà Triệu thì một là Bà Triệu Ẩu, hai là Bà Triệu Tả…”

Thiên hạ lại cười.

 

Tôi nói:

- “Mấy ông đừng ghét họ. Ở Pháp vô đảng Cộng Sản cũng như trong Nam hồi xưa vô dân Tây vậy. Vô để khỏi bị đàn áp. Vô dân Tây thì Tây nó sợ. Vô đảng Cộng Sản Pháp để được Cộng Sản nó bảo vệ. Các đảng chính trị bên Pháp chẳng có đảng nào bênh vực kiều dân. Tụi Pháp kỳ thị quá cha tụi Mỹ.”

 

 

Lập xuân

 

HOÀNG LONG HẢI

 

 

(1) Trước 1975, tờ báo Sân Khấu in hình ngoài bìa Khả Năng ôm Tú Trinh, dưới ghi chú: Khả Năng run vì sợ ông cò quận Bình Chánh. Hồi ấy Trần Phú Trắc làm cò Bình Chánh, là bạn của Tú Trinh.

 

(2) Lê Văn Chương, khóa 17 Võ Bị, người chơi đàn Guitar nổi tiếng ở Đà Lạt, thường biểu diễn chơi đàn một tay cho chúng tôi nghe. Trên đường di tản Quốc Lộ 7, anh bị thương ở ngón chân cái, không được điều trị nên bị gân rút, ngón chân cái tự nhiên ngóc cao đầu lên như đầu rồng. Do đó, Trần Phú Trắc đặt cho anh ta biệt danh là Chương Rồng.

 

(3) Anh em chúng tôi gọi anh Trần Hưng là Thầy Đồ Nho vì anh đang học thêm chữ Hán, viết chữ Nho đẹp, trình độ Hán Học cũng cao. Lúc ấy, tôi học chữ Nho với anh. Tôi không gọi anh ta là Thầy Đồ Nho mà gọi theo tiếng Tàu là Chi-Pụ (Sư phụ).

 

 

(Bai Chuyen) 

 

website counter