NHỮNG NGƯỜI
MUÔN NĂM CŨ
(Huy Phương)
Những lúc mệt mỏi, buồn phiền thay
vì nghe một bản nhạc hay đi ra ngoài
hít thở không khí, tôi thường đến
bên bàn thờ gia đình, thắp hay không
thắp một nén hương, đứng lặng một
phút nhìn vào từng khuôn mặt của
những người quá vãng qua khung ảnh. Sau phút đó, dù không giải
thích được, tôi thấy lòng mình
ấm áp và yên tĩnh trở lại.
Ðây là hình ảnh của
cha tôi. Ngày
xưa tôi thường oán trách ông
vì cuộc sống đa thê và hoàn cảnh
khó khăn của gia đình đã đem lại
cho anh em tôi những nỗi phiền muộn và nhọc
nhằn của tuổi ấu thơ. Nhưng
khi tôi khôn lớn, và ông đã về
già, không sống bên ông, tôi lại
thương ông hơn. Sau khi miền
Nam
bị sụp đổ, ông sống những ngày
cuối cùng trong nỗi cô đơn vì con
cái, đứa thì trôi giạt nước ngoài,
đứa thì lâm vòng tù tội.
Ông nằm xuống vào một ngày tháng
năm, khi tôi còn lặn lội trong những
cánh rừng Việt Bắc. Nghe tin ông mất,
tôi đã khóc, bao nhiêu nỗi trách
móc, oán hờn ngày xưa đã trôi
đi mất. Tôi nghĩ tôi chưa hoàn
thành bổn phận của một đứa con,
tôi lấy gì để trách về cuộc sống
của cha tôi.
Này là mẹ tôi. Trên khung ảnh, tôi thấy
hình như bà đang mỉm cười, dù
suốt tuổi thanh xuân, cuộc đời bà
quá là bất hạnh. Bà về
"làm hầu" cha tôi từ năm mười
bảy tuổi và cuộc đời bà cho đến
lúc chúng tôi lớn thành người,
là một chuỗi ngày đầy nước mắt.
Lúc nào bà cũng coi tôi như đứa
trẻ trong cánh tay bà ngày
nào, trong khi lớn lên, tôi bay nhảy
đó đây, nhiều lúc tôi đã
không còn nhớ đến bà. Bây giờ
về già tôi mới thấy mình là một
đứa con bất hiếu, nhưng tôi làm
được gì nữa. Tôi còn cái cảm
nhận bằng khứu giác với bát cháo
hành những ngày đau ốm và mùi
rơm rạ khi mẹ tôi ngồi trong bếp lửa
đun nồi cơm cho cả đại gia đình
trong những ngày tôi còn thơ ấu.
Ðây là hình ảnh của
ông bà nhạc gia, những người không hiện
diện trong tuổi ấu thơ của tôi, nhưng
khi đến tuổi trưởng thành, cuộc đời
đã kết hợp để từ đó sinh
ra một đại gia đình để các con
có bên nội bên ngoại. Nhưng rồi theo quy luật của thời
gian, khi trẻ con lớn lên, người lớn
già đi, như những ngọn lá vàng
rơi xuống, ủ ấm mặt đất để
cho những mần non nhú lên như vòng quay của
cuộc sống. Và nội, ngoại
là những nhân vật sẽ không còn tồn
tại trên thực tế, nhưng sẽ còn
mãi trong tâm thức ấu thơ của mỗi một
người.
Ðây là ảnh người anh
trai. Mặc
dầu là anh em cùng cha khác mẹ, ông
đã hết lòng thương yêu tôi.
Những ngày tháng trong chiến tranh ở thôn
quê, gia đình túng quẫn, cả gia
đình phải khoai sắn qua bữa, riêng phần
anh tôi vì phải đi dạy học xa, mỗi
sáng ông được bới một "mo"
cơm trắng và muối mè mang theo đến
trường. Biết em mình thiếu ăn
và thèm cơm, buổi sáng trước khi
đi, ông thường lấy con dao nhỏ cắt bốn
cái "rìa" cơm để lại cho
tôi. Khi lớn lên, khi còn độc thân,
có thời gian tôi sống chung với
gia đình ông, trong một lần bất
bình, tôi bỏ nhà ông ra đi. Không giải
quyết được gì, ông chỉ biết
khóc vì không biết rồi ra sẽ nói với
cha tôi ra sao !
Này là cô con gái của tôi. Tuổi
thơ của miền Nam sau Tháng Tư năm 1975
không còn là tuổi thần tiên nữa khi
phải sống với một bầu không khí xa lạ,
kỳ thị và với cảnh nhà khó
khăn trong khi cháu muốn được học
hành và được đối xử tử tế.
Con đường vượt thoát qua biển khơi
nghìn trùng đã là câu chuyện ly biệt
mà mỗi lần nhìn hình ảnh cháu
chúng tôi không khỏi bùi ngùi,
thương xót. Dù cuộc sống
hôm nay có tốt đẹp, no ấm bao nhiêu
đi nữa, thì sự mất mát này rất
khó bù đắp được. Trong niềm tan vỡ chia ly của hàng chục
nghìn gia đình Việt Nam, sự vắng mặt
của con gái tôi hôm nay luôn luôn nhắc
nhở cho tôi đến một giai đoạn đen
tối nhất của đất nước mà
riêng tôi khó lòng quên được.
Trong mỗi gia đình Việt Nam bàn
thờ là nơi, không phải có sự sum họp
của những người đã khuất mà
là nơi sum họp của những người
đang sống. Những ngày lễ Tết hay giỗ kỵ,
gia đình quây quần, thắp nén
hương lên bàn thờ để tưởng
nhớ những người đã khuất, chúng
ta không khỏi không nghĩ đến những
ngày đã qua, quãng đời thơ ấu,
trưởng thành với biết bao nhiêu kỷ niệm
khó quên của từng mỗi một gia
đình. Dưới những
mái từ đường ngày xưa, nhiều thế
hệ hiện diện trên bàn thờ tổ
tiên, trong một bầu không khí khá
âm u, nhiều khi mang vẻ linh thiêng, huyền
bí. Ngày nay, bàn thờ gia đình
thường ở chỗ sáng sủa, gần gũi với
những thành viên của gia đình hơn,
để con cháu mỗi ngày có thể
nhìn thấy hình ảnh ông bà, cha mẹ,
cùng với những người trong gia đình
đã khuất.
Theo thói quen của nhiều người lớn
tuổi, ngày trước đã quen biết với
gia đình, sau nhiều năm xa cách, trong dịp
trở lại thăm viếng, họ đã đến
bên bàn thờ kính cẩn thắp một
nén hương, như một lời chào hỏi
người lớn tuổi. Thói quen
đó, ngày nay nhiều người vẫn
còn giữ như một nền nếp rất Á
Ðông. Những ngày thơ ấu, vào những
ngày đầu năm Tết Âm lịch, tôi vẫn
thường được cha tôi dẫn đi
thăm viếng, lễ bái từ chính căn
nhà của ông bà nội tôi, sáng
đến nhà ông chú, ông bác, đến
nhà thờ họ, nhà thờ chi, tổng kết gần
năm chục cái bàn thờ có mang khung ảnh
tổ tiên, ông bà đã khuất, mỗi
nơi bốn lạy, ba vái. Vì sao vào những
ngày cuối năm, chúng ta lại có
thói quen quét dọn bàn thờ, lau chùi lại
bộ đồ đồng, bát nhang hay bộ
đèn và bàn thờ tổ tiên là
nơi quan trọng, thiêng liêng nhất của ba
ngày Tết. Cũng nhờ những ngày lễ giỗ,
bà con dòng họ đều biết nhau, "ba
đời chưa rời cánh tay", không như
bây giờ anh em họ ra đường không biết
mặt nhau.
Một gia đình không có
bàn thờ tổ tiên như một đời
người không có quá khứ. Chúng ta có cảm tưởng như cha mẹ
vẫn còn đó, hàng ngày đang chứng
kiến những nỗi vui buồn và sinh hoạt của
con cháu. Hình như trên
bàn thờ gia đình, người chết vẫn
luôn luôn hiện diện bên người sống,
và mỗi lần nhang khói lại đem thêm lại
niềm ấm áp cho tất cả mọi người.
Rồi đây: "Này chồng này mẹ
này cha, này là em ruột, này là em
dâu" tất cả đều trở thành
cát bụi, và gian nhà thờ là nơi dĩ
vãng thường sống dậy trong những
ngày giỗ kỵ hay lễ Tết của gia
đình của những thế hệ nối tiếp.
Huy Phương
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)