Người Viết Mướn
(Tiểu Tử)
Ở chợ
Plateau thành phố Abidjan ( thủ đô cũ của
xứ Côte d'Ivoire, Phi Châu ) ai cũng biết
ông già viết mướn đó. Người
ta gọi ông là " l'écrivain chinois "
(ông Tàu viết mướn )
Xứ Côte
d'Ivoire - thuộc vùng Phi Châu Da Đen - ngày
xưa là thuộc địa của Pháp. Dân
bản xứ đi học bằng tiếng Pháp.
Và vì họ gồm nhiều bộ tộc, mỗi
bộ tộc nói một thổ ngữ, nên họ
phải dùng tiếng Pháp để hiểu nhau. Về
sau, khi đã độc lập rồi, trường vẫn
dạy bằng tiếng Pháp và ngôn ngữ
chánh trong dân gian vẫn là tiếng Pháp.
Những người ít học hay thất học
thì nói "tiếng bồi", nghĩa là
tiếng Pháp không đúng văn phạm. Mấy
bà buôn bán ở chợ Plateau nói trên
thuộc vào thành phần này. Nhiều
bà có con cái "đi làm ăn" ở
Pháp hay ở Bỉ, lâu lâu cần xin gì
hay cần nhắn gì, họ phải nhờ người
khác viết cho cái thư. Ngoài ra, có nhiều
người cần viết đơn từ thưa gởi
nhưng không đủ trình độ để
viết đúng từ ngữ hành chánh
nên nhờ viết dùm. Do đó mới
có cái nghề viết mướn.
Ở khu chợ
Plateau, trước đây, chỉ có một
người đàn ông trung niên người bản
xứ làm nghề này. Anh ta hành nghề
dưới hàng hiên khu phố nhìn qua chợ,
nằm cách chợ một con đường. Chỗ
hắn ngồi là một bức tường nhỏ nằm
giữa hai cửa hàng bán radio của người
libanais. "Dụng cụ" của anh ta là cái
máy đánh chữ loại xách tay đặt
trên bàn gỗ nhỏ. Anh ta ngồi trên ghế
thấp vừa tầm với cái bàn, nhưng
vì anh ta lớn con chân dài nên khi
đánh máy anh ta phải cho hết hai chân xuống
dưới bàn đưa thẳng về phía
trước lòi ra một khúc, trông giống
như anh ta ôm cái bàn vào lòng !
Còn " khách hàng " thì hoặc đứng
hoặc ngồi xổm cạnh hai bàn chân to
xù mang dép Nhựt của hắn, tỉ tê kể
những gì mà họ muốn để trong
thư. Anh ta gõ máy bằng hai ngón tay nhưng
gõ khá nhanh, khách kể đến đâu
hắn gõ theo đến đấy. Đánh xong
thư, khách hàng đưa cho hắn mảnh giấy
nhỏ trong đó có ghi rõ địa chỉ
của người nhận thư, hắn lấy trong ba
lô để dưới chỗ hắn ngồi một
phong bì có dán tem sẵn, đánh máy
địa chỉ, cho thư vào rồi le lưỡi
liếm keo dán lại. Người khách hàng
chỉ còn có cho thư vào thùng thư
đứng ở góc đường gần
đó. Dĩ nhiên, khi hắn tính tiền, hắn
tính cả tiền giấy, phong bì, tem
…Thư gởi đi Pháp hay đi Bỉ đều
cùng một giá. Cho nên đã thành lệ,
sau vài câu chào hỏi, khách hàng cứ
đặt tiền trước lên bàn rồi
đợi hắn sửa bộ kéo bàn vào
lòng với cái máy đánh chữ
lúc nào cũng "ngậm" sẵn một tờ
giấy, là bắt đầu tỉ tê kể lể
… Còn đơn từ thì hắn dùng
phong bì không có tem, bởi vì khách
hàng mang tay đến nộp thẳng cho cơ quan
liên hệ. Loại "đơn từ" này,
hắn vẫn lấy bằng giá với "thư
nhà", bởi vì, theo hắn giải thích,
viết cho hành chánh khó gấp mấy lần
viết cho thân nhân. Bớt con tem nhưng thêm
nhiều công suy nghĩ !
Một hôm,
có ông già á đông - ốm nhom,
già khú - đi lang thang với điếu thuốc
trên môi, ngang qua đó nghe tiếng
đánh máy lọc cọc nên tò mò
đứng lại nhìn. Đợi anh đen làm
xong công việc, ông già mới chào hỏi
làm quen. Anh đen rất ngạc nhiên vì
ông ta nói tiếng Pháp rất trôi chảy
rành rọt, không giống những người
á đông mà anh đã từng gặp hay
quen biết. Ông già ghé đít ngồi
lên bệ thềm gần đó, hỏi :
- Ông làm
nghề gì vậy ?
Anh đen nhăn
răng cười :
- Viết thư
dùm người ta, người ta trả tiền.
Ông không thấy bà hồi nãy cầm phong
bì đi sao ?
- Thấy. Nhưng
mà hồi nãy hai người nói với nhau bằng
thổ ngữ nên tôi không hiểu.
Ngừng một
chút, ông già lại hỏi :
- Làm ăn
có khá không ?
- Ố ! Cũng tạm
được.
Hắn chỉ qua
bên chợ :
- Khách
hàng của tôi là mấy bà buôn
bán ở bên kia. Họ không biết chữ,
mà con cái họ thì đi làm công
bên Pháp bên Bỉ hết. Thành ra,
ngày nào cũng viết dùm vài cái
thư, lai rai …Với lại ở xứ này,
người ta hay thưa gởi kiện cáo lắm
nên có công việc làm hoài !
Rồi hắn
nhìn ông già từ đầu đến
chân :
- Còn ông ?
Ông làm nghề gì ở đây ?
- Già quá
đâu có ai mướn. Ở không, đi lang
thang.
Anh đen lại
nhìn ông già ra vẻ tội nghiệp :
- Rồi lấy
gì sống ?
- Sống nhờ
con. Con gái ở nhà làm nem. Thằng em nó
đạp xe đi bán. Khá chật vật !
- Ông người
Tàu hả ?
- Không. Tôi
người Việt Nam.
Nói xong,
ông già thở dài. Tội nghiệp cho
cái xứ Việt Nam của ông ! Nhược tiểu
đến mức độ mà người dân khi
ra ngoại quốc cứ bị thiên hạ gọi
là người Tàu !
Ông già
đưa bao thuốc lá mời anh đen :
- Hút một
điếu chơi.
- Cám ơn.
Tôi không biết hút thuốc.
Ngừng một
chút, anh ta hỏi :
- Nhà ông ở
đâu ?
- Ở tuốt
trên Cocody, gần nhà thờ.
- Xa quá
há. Rồi ông đi bằng gì xuống
đây ? Xe buýt hả ?
- Đi bằng xe
đạp. Đạp xuống thì dễ, đạp
về leo dốc mới mệt !
Anh đen lại
nhìn ông già một lúc, mới nói :
- Ông nói
tiếng Pháp rành quá mà không đi
làm việc cũng uổng.
- Già như
tôi thì còn làm được gì
?
- Tuổi tác
ăn nhập gì, trình độ văn hoá mới
cần chớ !
Ông già
hít mấy hơi thuốc, suy nghĩ. Một lúc
sau ông hắng giọng rồi hỏi :
- Ông thấy
tôi làm cái nghề viết mướn
được không ?
Anh đen nhăn
răng cười hớn hở :
- Được
chớ ! Được chớ !
Rồi đề
nghị :
- Ông cứ ngồi
kế bên đây ! Đừng ngại gì hết
! Cả khu Plateau chỉ có một mình tôi
làm nghề này. Có thêm ông càng
vui.
Thấy dễ
dàng quá, ông già đứng ngẩn ra,
chưa kịp nói lời nào thì anh ta
nói tiếp :
- Vậy, sáng
mai ông đem máy đánh chữ ra, nghen.
- Tôi không
có máy đánh chữ. Tôi viết tay
được không ?
Giọng anh đen
hơi xìu xuống :
- Ồ … cũng
không sao. Cứ ra đây đi, rồi tính.
Ông già mừng
rỡ, bắt tay anh đen, nói "Cám ơn !
Cám ơn ! Ông tốt bụng quá !", rồi
đi xăng xớm về chỗ để xe đạp
trước ngân hàng gần đó, mở
khoá lấy xe phóng lên đạp đi
mà nghe như vừa được bơm vào
người thêm nhiều sinh lực !
Mấy hôm sau,
ông già xin được của hội nhà thờ
một cái bàn và ba cái ghế bằng
nhôm loại xếp được để đi
pique-nique. Ông mua một mớ giấy viết thư,
phong bì, tem, bút bi rồi đạp xe đạp
chở bàn ghế đến ngồi cạnh anh
đen, hành nghề viết mướn. Buổi
sáng đó, trước khi rời nhà,
ông lẩm bẩm :" Bữa nay đúng là
một ngày đẹp trời !" …
Ông già ngồi
đã ba hôm, chẳng có một ai đến
nhờ viết ! "Khách hàng" cứ nhờ
anh đen. Thấy vậy, anh ta an ủi :
- Đừng buồn.
Từ từ rồi sẽ có khách. Tại
ông không có máy đánh chữ nên
người ta không biết đó thôi.
Một hôm,
có hai bà cùng đến một lúc. Anh
đen tiếp một bà rồi nói với
bà kia :
- Nếu bà gấp
thì bước qua ông đồng nghiệp của
tôi đây, ổng giúp cho. Ổng viết tay,
nhưng cần gì ! Viết tay hay đánh máy
cũng vậy thôi ! Điều cần thiết
là viết làm sao cho người đọc hiểu.
Bà khách
ngần ngừ một lúc rồi bước qua ngồi
lên cái ghế xếp trước mặt ông
già. Như thông lệ, bà ta đặt tiền
lên bàn rồi bắt đầu kể lể bằng
thứ tiếng Pháp không có văn phạm.
Ông già ngồi chống càm, lắng tai nghe.
Thấy ông viết
mướn không viết gì hết, bà
khách ngừng kể, lấy làm lạ nhìn
ông :
- Sao ông
không viết ?
- Thưa bà,
tôi đang nghe bà kể, đây.
Bà ta chỉ
anh đen :
- Sao kỳ vậy
? Ông làm không giống anh này ! Với anh
ta, khi tôi bắt đầu nói là anh ta bắt
đầu gõ. Còn ông thì không
nhúc nhích gì hết !
Ông già
phì cười, giải nghĩa chầm chậm :
- Xin lỗi.
Tôi phải nghe bà kể hết những gì
bà muốn nói cho người con của bà, rồi
tôi mới sắp xếp câu văn để viết.
Bà biết không, viết thư phải viết cho
mạch lạc thì người con của bà mới
hiểu được hết cái ý của
bà, bà hiểu không ?
Bà khách
ngần ngừ rồi gật đầu. Ông già
đốt điếu thuốc, nói tiếp
:"Bây giờ, xin bà kể lại. Từ từ
kể lại, tôi nghe". Bà khách liếc
nhìn ông rồi nhìn vội xuống hai
bàn chân của bà, thấp giọng kể
…Bà khổ lắm, buôn bán ế ẩm,
con dâu mang bầu đứa thứ năm gần sanh
mà cứ đau rề rề, mấy đứa
cháu nội đi mót khoai mót củ nhưng
không đủ ăn, bà đã gởi ba cái
thư xin tiền thằng con, xin nó thương vợ
thương con của nó nheo nhóc, chắc thư
đã đi lạc nên không thấy hồi
âm, bà khổ lắm, không biết thằng con
ở bên Pháp còn sống hay đã bị
cái gì rồi … Bà khách ngừng kể,
kéo ống tay áo lên lau nước mắt.
Nghe xong, ông
già viết mướn, chừng như xúc động,
làm thinh hít mấy hơi thuốc dài.
Bà khách len lén nhìn ông rồi lại
nhìn xuống chân của bà, hai bàn
chân cùi đày nằm trong đôi dép
cao su rách bươm lấm lem bùn đất.
Bà đợi. Suy nghĩ một lúc, ông
già mới lấy giấy viết. Lâu lâu,
ông ngừng lại nhìn xa xăm qua chợ nằm
phía đối diện như để tìm chữ
tìm câu. Rồi lại cúi đầu viết
tiếp.
Viết xong,
ông hỏi :
- Bà cần
tôi đọc lại không ?
Bà khách
chớp chớp mắt, lắc đầu. Bà
đưa cho ông địa chỉ của người
con, ông chép lên phong bì đã dán
tem, cho thư vào dán lại rồi trao cho bà
khách. Bà cầm thư lật qua lật lại
nhìn như thiếu tin tưởng, rồi đứng
lên làm thinh đi về hướng thùng
thư đứng ở góc đường. Ông
già nhìn theo, lòng nghe chơi vơi như
chính ông đang đi gởi thư cho thằng con
…
Ngày nào
ông già viết mướn cũng mang đồ ra
ngồi cạnh anh đồng nghiệp đen, nhưng
không phải ngày nào ông cũng có
khách. Lâu lâu, có dư người
thì anh đen "đẩy" qua cho ông. Anh ta
nói đùa :"Đồng nghiệp mà ! Phải
giúp nhau chớ !" Ông cười chua chát
:"Cám ơn ! Cám ơn ! Nhờ lòng tốt
của anh mà tôi cũng vớt vát được
một hai người ".
Một hôm, anh
đen bỗng hỏi :
- Hồi trước
ông làm gì ở Việt Nam ?
- Buôn bán.
Ông không muốn
nói hồi đó ông là chủ hai
nhà thuốc tây, khá giàu.
- Rồi tại
sao ông đi qua đây vậy ?
- Tại làm
ăn không được. Tại…tại
nghèo.
Ông không muốn
nói " cách mạng " đã tịch
thâu tài sản của ông, gia đình
ông sống cầu bơ cấu bất ở vùng
kinh tế mới, vợ ông chết ở trên
đó, ông và hai đứa con trốn về
thành phố sống chui như bầy chó hoang,
ăn nhờ ở đậu …
- Bộ ông
có quen ai bên nây hả ?
Đến
đây thì ông già không giấu giếm
gì hết :
- Đâu
có. Tôi đâu có quen ai. Tôi nghe
nói Nhà Nước Côte D' Ivoire dễ dãi
và tốt bụng nên tôi viết đại một
lá thư dài gởi thẳng cho ông Tổng Thống,
trong đó tôi kể hết hoàn cảnh bi
đát của tôi. Tôi viết mà không
có hy vọng gì hết.
- Ồ … Tại
ông không biết chớ Tổng Thống Houphouet của
tụi này rất bình dân và thương
người lắm !
- Bây giờ
thì tôi biết. Bởi vì sau bức thư của
tôi, tôi nhận được visa và luôn
vé máy bay cho ba cha con tôi nữa. Chuyện thật
khó tin.
- Gì mà
khó tin ? Tổng Thống tụi này hay làm những
"c " ngoạn mục như vậy lắm ! Chắc
ông viết thư cũng phải hay lắm nên mới
làm xúc động "Le Vieux" (Ông
Già).
Ở Côte d'
Ivoire, dân chúng thương Tổng Thống Houphouet
nên khi nói chuyện với nhau họ gọi
ông là "Ông Già" một cách
trìu mến.
- Hồi
đó tôi viết giống như tôi muốn
than thở với một người nào đó
để cho vơi nỗi thống khổ của
mình, chớ đâu dè. Nhận được
giấy tờ, tôi như trên trời rớt xuống
!
Đến
đây, ông già không nói rằng
ông đã bán mấy chiếc nhẫn cất
giấu từ sau trận nhà nước đánh
tư sản, để chạy lo vô hộ khẩu của
người bà con xa, rồi chạy lo chiếu
khán xuất cảnh v.v…
Ông chỉ
nói :
- Hồi qua đến
phi trường Abidjan, cha con tôi không biết đi
đâu ở đâu. Tôi phân trần với
chánh quyền sở tại, họ điện thoại
gọi hội "Anciens d'Indochine". Nhờ hội
này giúp nên tụi tôi mới có
căn nhà nhỏ ở Cocody và chút vốn
làm nem đi bán dạo, sống lây lất tới
bây giờ …
- Tôi nghe
nói người ViêtNam tỵ nạn ở
Pháp ở Mỹ nhiều lắm. Bộ ông
không có bạn bè bà con định cư
ở các xứ đó sao ?
- Có chớ.
- Sao ông
không viết thư cho họ ? Kẻ đi trước
giúp người đi sau là sự thường
mà.
Ông thở
dài, hít mấy hơi thuốc rồi mới
nói :
- Tôi có viết
thư chớ. Chỉ viết thăm thôi và
báo tin rằng tôi đã đến Côte
d'Ivoire. Nhưng không thấy ai trả lời hết.
- Có lẽ
không đúng địa chỉ chăng.
- Đúng chớ
! Nếu không đúng nó phải được
trả về, bởi vì tôi có ghi rõ
địa chỉ người gởi mà. Hồi ở
Việt Nam người thân của họ cho tôi
địa chỉ và tin tức, nói họ bây
giờ ổn định và khá lắm.
- Ờ … sao vậy
há ?
- Chắc họ sợ
tôi xin tiền …
Ông cười
khẩy một tiếng nghe như ông muốn khạc
ra một cái gì chận ngang cổ họng, một
cái gì vừa cay đắng vừa nhờm tởm.
Ông nhớ lại hồi thời "vàng son",
bạn bè bà con của ông tới lui nhà
ông ăn nhậu hà rầm, trong số đó
có nhiều người đã được
ông giúp đỡ cưu mang. Vậy mà
bây giờ … Ông hít một hơi thuốc
thật sâu rồi nhả khói ra từ từ
làm khoảng trống trước mặt bị mờ
đi, giống như ông muốn xoá bỏ trong
đầu hình ảnh của mấy thằng bạn
bè mấy người bà con mà ông vừa
nhớ lại … Anh đồng nghiệp da đen suy
nghĩ một lúc lâu rồi nghiêng người
qua vỗ vai ông vài cái nhè nhẹ, một
cử chỉ an ủi tầm thường như vậy
mà ông già viết mướn bỗng thấy
nó đẹp vô cùng. Ông xoay người
qua bắt tay anh đen, không nói gì hết,
nhưng ông chắc chắn rằng anh bạn
đó hiểu là cái cám ơn của
ông già Việt Nam lưu vong …
Một hôm,
bà khách hàng đầu tiên của
ông già viết mướn mang biếu ông hai
trái xoài Caméroun (loại xoài xứ
Caméroun ngon nổi tiếng vùng Phi Châu Da
Đen) vừa cười vừa nói :
- Tôi cám
ơn ông. Nhờ cái thư của ông mà
thằng con của tôi hồi tâm. Nó gởi tiền
về, kèm theo một cái thư dài. Nó
nói nó đọc thư của ông nó
khóc quá ! Nó lạy lục xin tôi tha tội
cho nó. Nó nói là nó có vợ
và một con ở bên Pháp nhưng nó thề
sẽ gởi tiền về đều đặn để
nuôi tụi này …Tôi vui quá ! Vui
quá !
Bà ta nói
một hơi, nói thứ tiếng Pháp " ba
xí ba tú ", nhưng trong giọng nói nghe
đầy xúc động. Nói xong, bà
kéo ống tay áo lên lau nước mắt.
Ông già nhớ lại cách đây hơn
mươi bữa, bà cũng kéo áo lên
lau như vậy sau khi kể lể sự buồn khổ
của bà. Thì ra, cái vui cái buồn vẫn
giống nhau ở giọt nước mắt !
Ông già mỉm
cười :
- Tôi viết
mướn, bà trả tiền, có gì
đâu mà bà cám ơn ?
- Không nhờ
cái thư của ông, không biết tụi
này còn khổ sở đến đâu.
Cám ơn ! Cám ơn !
Nói xong,
bà đi trở qua chợ. Ông già đưa một
trái xoài cho anh đen :
- Anh cầm lấy
để chia vui với tôi !
Anh ta cầm
trái xoài trên tay nhìn ngắm một
lúc rồi nói :
- Làm nghề
này đã hơn năm năm, tôi chưa
được khách hàng tặng quà bao giờ.
Ông mới ra nghề mà được như vầy
là ông viết thư
phải hay lắm.
- Thì cũng
ráng viết vậy thôi.
- Đâu
được ! Viết mà làm xúc động
người đọc đâu phải dễ. Bây
giờ tôi hiểu tại sao "Ông Già"
đã gởi tặng ông visa và vé
máy bay !
Ông già viết
mướn đốt điếu thuốc, thở
khói một cách sảng khoái. Ông nhớ
lại ngày xưa, thuở thiếu thời, ông
lúc nào cũng đứng đầu về luận
văn, và về sau ra đời, ông cũng
có lai rai vài ba truyện ngắn đăng
báo này tạp chí nọ. Viết, đối
với ông, là để giải tỏa tâm
tư, một cách giải tỏa trầm lặng
và sâu đậm hơn là nói. Cho nên
trong đời ông, ông rất thích viết, nhứt
là viết thư cho bạn, những người cũng
thích viết như ông hay ít ra cũng biết
viết vài dòng hồi âm hay vài chữ
để hỏi thăm nhau …
Hai hôm sau,
có thêm một bà mang đến mấy
trái cam để cám ơn ông đã viết
thư cho chồng bà có vợ đầm ở Bỉ.
Rồi cứ như vậy, vài hôm là có
người đến cám ơn, cho quà, khi
thì chai đậu phọng (Ở đây, sau khi
rang, đậu được cho vào chai lít đầy
tới miệng rồi đóng nút để giữ
cho được dòn lâu. Người nghèo bản
xứ hay ăn đậu phọng với bánh mì
…) Khi thì mấy trái cà chua, vài
bó rau cải …Có gì cho nấy, không nề
hà ! Ông già nhận hết, bởi vì
ông thấy làm như vậy, người cho rất
vui. Cái vui của họ được bộc lộ
ra một cách rất thiệt thà : họ quay
lưng bước đi, vừa vỗ tay thành nhịp
vừa lắc lư nhún nhảy. Lần nào
ông cũng nhìn theo, thấy cũng vui lây
…
Vậy rồi
không biết họ đồn với nhau thế
nào mà khách hàng cứ đến nhờ
ông viết. Những người cần làm
đơn từ cũng đến nhờ ông ! Bên
anh đen đồng nghiệp thấy thưa khách.
Ông già bèn đề nghị :"Tình trạng
này kéo dài coi kỳ quá ! Tôi đề
nghị anh bạn như thế này : tôi lãnh
viết thư nhà, anh lãnh viết đơn
hành chánh. Mình cứ nói đơn
hành chánh phải được đánh
máy cho sạch sẽ dễ đọc thì
các cơ quan mới mau chóng cứu xét. Anh
đồng ý không ?" Anh đen nhăn răng
cười, bắt tay ông một cái đau điếng
!
Từ đó,
thấy khách đến, anh đen trịnh trọng
nói :"Đơn từ thì ở bàn
này. Thư cho thân nhân thì bước sang
bàn ông bạn đồng nghiệp của tôi
đây !" Lần hồi, khách hàng cũng
quen nên cả hai người viết mướn
cùng có việc làm đều đặn.
Và càng ngày càng đông khách.
Một hôm, anh
đen hỏi :
- Tôi cứ thắc
mắc : làm sao viết thư mướn mà
ông viết hay được như vậy ?
- Tại anh
không biết. Xưa nay tôi say mê viết.
Tôi thích viết cho một người nào
đó để giải bày, để chia xẻ
những cảm nghĩ những suy tư của mình,
chọn lời cho đúng, chọn câu cho hay …
thú lắm !
Ông già ngừng
nói, hít chầm chậm một hơi thuốc rồi
chép miệng :
- Bây giờ
tôi chẳng còn ai để mà viết. Bạn
bè thì anh biết đó. Chúng nó cũng
như người vừa đui vừa điếc, viết
uổng công. Cho nên làm nghề viết mướn
này, tôi có chỗ để viết. Tôi
khổ cái khổ của khách hàng, tôi
vui cái vui của khách hàng, tôi tâm sự
cái tâm sự của khách hàng. Tôi viết
với tất cả những xúc cảm chân thật
đó, viết mà không nghĩ là
mình viết mướn !
Anh đen vỗ
tay đôm đốp, khen :
- Hay ! Ông
nói hay quá ! Bây giờ tôi mới hiểu
tại sao khách hàng mến mộ ông như vậy
! Tổng Thống tụi tôi đem ông qua
đây, đúng là " Ông Già " ổng
có con mắt !
Rồi hắn
cười hắc hắc làm ông già cũng bật
cười theo. Cả hai, không người nào nhớ
rằng mình da đen hay mình da vàng, họ chỉ
biết họ là hai người viết mướn
…
Hai
năm sau …
Một hôm
ông già bỗng thèm viết cho mấy thằng
bạn hồi đó. Viết cho mỗi người một
cái thư, lời lẽ y chang như nhau. Viết bức
thư cuối cùng cho họ. Viết để cho họ
thấy rằng ông phủi đít phủi tay, dứt
khoát không còn bận bịu gì nữa với
quá khứ, với lớp bụi đất
đã ăn bám vào ông hồi thuở
"vàng son".
Ông đốt
điếu thuốc, suy nghĩ. Đại khái,
ông sẽ viết :
"
Thưa anh … gì gì ( hay chị … gì
gì )
Tôi viết thư này
để báo tin cho anh… ( hay chị… ) mừng
dùm cho cha con chúng tôi. Tụi này
đã định cư luôn ở Côte d'Ivoire.
Bây giờ, đời sống tụi này
đã ổn định, cuộc sống tương
đối khá. Hai con tôi có cửa hàng
bán nem ở chợ Cocody, thiên hạ đến
mua cũng đông. Còn tôi thì làm nghề
viết mướn, khách hàng cũng nhiều.
Được như vậy là nhờ ở xứ
đen này, con người thấy đen nhưng
lòng dạ của họ không đen chút
nào hết. Chẳng bằng người Việt
mình, nhiều người bề ngoài trắng trẻo
lịch sự nhưng lòng của họ chẳng những
đen mà còn bạc nữa, anh … ( hay chị
…) có thấy như vậy không ? ..."
Nghĩ đến
đó, ông già bỗng cười khan một
mình !
Tiểu Tử
(Huôn Trinh sưu tầm
và chuyển)