NHỮNG CHUYỆN
NHO NHỎ …
(TIỂU TỬ)
Trong đời tôi, tôi
đã nghe kể lại hay chính tôi
đã mục kích rất nhiều chuyện nho nhỏ,
những chuyện tầm thường không có
gì “éo le gút mắc” hết, những
chuyện mà tôi cho là có nghe qua hay thấy
qua rồi bỏ cũng không sao. Vì vậy,
tôi coi thường những chuyện nho nhỏ.
Gần đây, một chuyện nho
nhỏ xảy đến cho tôi đã làm
tôi suy nghĩ. Thì ra chuyện nho nhỏ có khi
chứa đựng một bài học lớn mà con người không
để ý, vì chỉ quen nhìn những chuyện
lớn, những chuyện “đập vào mắt”,
xưa nay… Rồi tôi tẳn mẳn ngồi nhớ
lại từng chuyện nho nhỏ, để thấy mỗi
chuyện là một nét chấm phá của cuộc
đời, có chuyện còn mang vài ẩn dụ
để con người suy gẫm. Vậy là tôi
lần mò viết lại, không cần thứ tự
lớp lang, không cần chọn lựa loại chuyện
này hay loại chuyện nọ.
Mời các bạn cùng tôi
đi lần vào những chuyện nho nhỏ này
để cảm nhận thi vị của cuộc sống
đang nằm đầy ở trong đó, và
nó thật là gần gũi với mình
như hơi thở như nhịp tim …
BÀ ĐẦM GIÀ
VÀ ANH VIỆT NAM.-
Chuyện xảy ra ở ngoại ô
Paris (Pháp)
Hôm đó, trên đường
về nhà, tôi gặp một người
đàn ông Pháp cỡ bốn mươi tuổi
ăn mặc đàng hoàng, kè theo hỏi:
- Xin lỗi ! Ông là người
Tàu hay người Việt Nam ?
Tôi dừng lại, ngạc
nhiên, trả lời:
- Tôi là người Việt Nam.
Ông ta mừng rỡ:
- Vậy, có phải trưa hôm
qua, ông đã đỡ một bà cụ
té ở chỗ này không ?
Tôi càng ngạc nhiên
thêm:
- Không ! Tôi không có đỡ
ai hết !
Tôi trả lời mà nghĩ
đến mấy chuyện ra tay cứu người rồi
mang vạ vào thân vì sau đó nạn
nhân quay lại thưa người cứu mình
đã lấy tiền lấy đồ .. v v …
Có lẽ đoán được
ý nghĩ của tôi nên ông ta mỉm cười
ôn tổn nói ;
- Ông yên tâm ! Không
có chuyện gì rắc rối hết. Tôi chỉ
muốn tìm người Việt Nam đã đỡ
mẹ tôi thôi. Bà cụ đó là mẹ
của tôi, thưa ông.
- Vậy à ! Nhưng mà tôi
nói thật : hôm qua, vào giờ này
tôi có đi qua đây, không thấy ai
té hết. Mà… bà cụ có sao
không ?
- Cám ơn ông, Mẹ tôi
không có sao hết.
Rồi, không đợi tôi hỏi,
ông kể lại những gì mà mẹ ông
đã kể cho ông nghe… Hôm qua, bà cụ
đi thăm một bà bạn. Bà đi qua lối
này để về nhà. Đây là
ngõ đi tắt duy nhứt dẫn qua khu nhà
bà ở. Khi đến khoảng đất trống
có bốn trụ đèn đường, bà
trợt chân té. Lúc đó, cũng có
mấy người hấp tấp qua lại, họ quay
đầu nhìn nhưng rồi bỏ đi luôn. Một
người đàn ông Á đông,
đã đi qua rồi, thấy vậy chạy trở
lại đỡ bà đứng lên, lượm
cái xắc da mang chéo vào người bà,
ân cần hỏi bà có sao không ? Bà
bước thử vài bước, nói không
sao, rồi kể rằng già rồi, đi thì
được, chỉ có ngồi xuống đứng
lên mới là khó. Ông ta tỏ vẻ
ái ngại, bước lại cặp tay bà
nói để dìu bà về. Hai người
đi như vậy một lúc, bỗng bà hỏi
ông người Tàu hả, ông trả lời rằng
mình là người Việt Nam. Mắt bà
sáng lên, bà nói bà có bà bạn
năm nào cũng đi du lịch Việt Nam vào dịp
đầu năm, bả nói xứ ông đẹp
lắm, rẻ lắm, dân chúng hiếu khách dễ
thương …
Đến một đoạn đường
ngắn, bà cụ bỏ tay ông Việt Nam, bước
một mình vừa đi vừa nói tôi đi
được ông khỏi lo, tôi ở đường
Colette gần đây, còn ông, ông ở
đâu ? Ông
đó nói tôi ở khu xa hơn, phía
bên kia trường học, ngày nào cũng
đi và về bằng ngả này. Bà cụ
đi một đỗi nhìn lại thấy ông Việt
Nam còn đứng nhìn theo coi bà cụ
có thật sự đi một mình được
không ! Tối đó, bà kể chuyện cho
người con nghe, rồi sực nhớ ra, bà
nói: “Chúa ơi ! Tao quên nói cám
ơn ông ta !”. Vậy là bà cụ bắt
người con hôm sau ra lối đi tắt chận hỏi
từng người Á đông để tìm
ngưởi Việt Nam đã đỡ bà chỗ
“khoảng trống có bốn trụ
đèn”, tìm để chỉ nói lời
cám ơn mà bà đã quên nói
hôm qua !
Kể xong, ông nắm tay tôi siết
nhẹ. Rồi ông nhìn tôi, mắt đầy
thiện cảm, nói: “Cám ơn !”.
Tôi bước đi, lòng lâng lâng
hãnh diện, mặc dầu tôi biết rằng lời
cám ơn đó không phải cho tôi
mà là cho chung hai chữ “Việt Nam”
…
CHUYỆN TRƯỚC CỔNG
CHÙA BÀ.-
Năm 2006, vợ tôi về Việt
Nam lo ma chay cho má tôi. Sau đó, bả
được mấy đứa cháu chở đi
Châu Đốc viếng Chùa Bà.
Cúng vái xong, ra đến cổng
chùa thì có một đám bé gái
độ mười hai mười ba tuổi bu lại
chen lấn nhau xin tiền. Một đứa đứng gần
vợ tôi, có vẻ lanh lợi nhứt, xè tay
nói một hơi có ca có kệ: “Ngoại
ơi ngoại ! Ngoại cho con 5000 đồng, con cầu
nguyện Bà cho con gái ngoại lấy được
chồng Đài Loan ! Ngoại ơi ngoại ! Ngoại
cho con 5000 đồng, con ... ”
Trên đường về, vợ
tôi miên man suy nghĩ về mấy đứa nhỏ
đó: không có tiền để đi học,
còn quá nhỏ để có một cái
nghề, và chắc nhiều đứa - rất nhiều
đứa - chỉ ước ao lấy được chồng
Đài Loan khi mình lớn lên một chút
! Rồi vợ tôi thở dài ...
Nghe kể mà tôi thấy
thương quê hương tôi vô cùng.
Trước đây, dù có nghèo đi mấy
cũng chưa bao giờ tệ đến như vậy !
Viết lại chuyện này mà tôi nghe
rát từ đáy lòng rát lên
khóe mắt ...
ĐẠP XÍCH
LÔ.-
Trung đã cao lớn lại ham
chơi thể thao và tập thể dục đều
đặn nên anh ta rất “đô” con.
Đi với tụi bạn đồng nghiệp người
Pháp hay người da đen, Trung là người
Việt Nam mà vóc vạc ngang ngửa với tụi
nó. Có đứa nói giỡn: “Thằng
này, nó ăn phở không mà nó lớn
con như vậy. Nếu nó ăn bánh mì
“xúc xích - phô mai” như mình chắc
nó thành ông khổng lồ quá !”.
Cách đây hai năm, Trung về
thăm Việt Nam. Đó là lần đầu
tiên anh về. Tôi không có dịp gặp
anh để hỏi thăm. Mãi đến gần
đây tình cờ gặp nhau ở khu 13 Paris, anh mới
kể cho tôi nghe chuyến về Việt Nam của anh
lần đó. Tôi xin ghi lại chuyện nhỏ
sau đây ...
... Con qua Pháp với ba mẹ hồi
con mới năm tuổi, bây giờ về, thấy
cái gì cũng lạ ! Cho nên con dành mấy
ngày đầu để đi vòng vòng cho biết
Sài gòn. Con nhờ anh tiếp viên của
khách sạn kêu cho con một anh xích lô bao
chạy một ngày. Vậy là sáng hôm
sau, đúng theo lời con dặn, anh tiếp viên gọi
con dậy bằng điện thoại cho hay xích
lô đang đợi, đồng thời cho biết
luôn số tiền thuê bao. Con đếm số tiền
rồi để riêng vào một túi quần,
con muốn tránh móc bóp đếm tiền
trước mặt mọi người sợ bọn
lưu manh nó giựt. Con xuống tới quầy
thì anh tiếp viên vui vẻ chỉ ra phía
trước. Con cám ơn rồi bước ra
ngoài. Thấy con, ông xích lô đang ngồi
chồm hổm trên vỉa hè vội vã đứng
lên chấp tay chào.Tự nhiên, con khựng lại,
mặc dù ông ta đang đón con bằng một
nụ cười rạng rỡ. Bác biết không
? Ổng già khú, ốm nhom, nhỏ xíu.
Cái nón vải đen ổng đội,
đã rách bươm. Còn bộ đồ
trên người ổng, con không biết tả
làm sao cho bác thấy. Nó là cái
áo bà ba xanh dương vá chầm vá
đụp và không còn hai ống tay ! Còn
cái quần ka-ki là loại quần dài
đã bị xé mất hai khúc ống cỡ
ngang đầu gối, một bên cao một bên thấp.
Đó ! Ông xích lô của con đó !
Bác coi : con như vầy thì nỡ lòng
nào lên ngồi cho ông già ốm nhom
đó đạp xe đưa con đi. Mà liệu
ổng có đạp nổi một ngày cho con xem
chỗ này chỗ nọ không ? Con định hồi
không đi nhưng nghĩ lại tội nghiệp
ông già. Cái cười tươi rói của
ổng cho thấy là ổng đang “ trúng mối
lớn ”. Con bước lại bắt tay ổng,
móc túi đưa tiền, nói :
“Đây, tiền công của bác trọn
ngày nay đây !”. Ổng mừng rỡ,
móc trong lưng ra một túi vải miệng
có dây rút, run run tay mở ra cho tiền
vào. Con hỏi : “Bác không đếm sao
?”. Ổng cười, nhìn con : “ Khỏi ! Hổng
lẽ cậu như vầy mà đi ăn gian tui sao
?”. Rồi ổng xăng xốm chạy lại kềm
phía sau xe, mời: “Cậu lên ngồi, đi
!”. Con lắc đầu: “Không ! Bác
lên ngồi đi, để tôi đạp !”.
Nụ cười của ổng tắt mất: “Ủa
! Gì kỳ vậy ?”. Con giải thích:
“Tôi như vầy mà để cho bác
đạp, coi sao được !”. Ổng vỗ vỗ
lên yên xe: “Tôi đạp được !
Bảo đảm ! Cậu đừng lo ! Cậu lên
ngồi đi!”. Con nghĩ chắc ổng sợ con
chê ổng rồi không đi, lấy tiền lại,
nên con ôn tồn nói: “Bác yên
tâm. Bác cứ giữ số tiền tôi
đưa, rồi lên xe ngồi. Tôi đạp từ
từ”. Ổng bắt đầu nhìn con nửa
ngạc nhiên nửa hốt hoảng. Để khỏi
cù cưa, con bước lại đưa hai tay cặp
eo ếch của ổng nhấc bổng lên đặt
vào chỗ ngồi của khách. Ổng nhẹ
đến nỗi cái xe không nhúc nhích ! Rồi
con trèo lên đạp đi. Ông già cứ
nhìn ngược về phía sau, lo lắng: “Cậu
liệu được không cậu ?”. Con vui vẻ
trả lời cho ông yên tâm: “Được
mà ... Dễ ợt hà !”. Con men theo lề
đường đạp chầm chậm để
tránh luồng xe chạy
ồ ạt trên lòng đường. Thiên hạ
nhìn con chở ông già, cười nói chỉ
trỏ. Ông già ngồi không yên, lâu
lâu ngoáy nhìn lại coi con ra sao ! Có lẽ
vững bụng nên không nghe ổng nói gì
hết. Một lúc sau bỗng ổng la lớn:
“Quẹo mặt ! Quẹo mặt ! Khúc này cấm
xe xích lô !”. Từ đó, ổng chỉ
cho con chạy: “Từ từ ... Đằng trước
có xe đậu. Khi nào kềm bằng chân
không nổi thì kéo thắng ở dưới
đít ... .” Có lúc thấy con xiên
xiên định quẹo vô một con đường
nằm ngang, ổng la lên: “Đừng ! Đừng
! Đường cấm xe xích lô!” ... Và
như vậy, con đạp đi loanh quanh, nhìn ngang
nhìn ngửa, yên chí có ông già coi
chừng đường nhắc trước con phải
làm gì ... làm gì ... Gần trưa, con tấp
vô một quán phở, nói: “Mình
vô ăn cái gì đi”. Ổng nói:
“Cậu vô ăn đi, tôi không
đói”. Con kéo tay ổng để cùng
đi vào tiệm, ổng rị lại: “Thôi
mà cậu ! Tôi lạy cậu mà cậu ! Cậu
để tôi ngồi ngoài này giữ
xe!”. Rồi ổng gỡ tay con ra, bước lại
vệ đường ngồi chồm hổm bên cạnh
xe xích lô, vấn thuốc hút. Trong quán,
con nhìn ông già mờ trong khói thuốc sao
bỗng nghe bất nhẫn vô cùng. Không
còn lòng dạ đâu để ăn phở,
con kêu tách cà phê uống đại rồi
đi ra. Thấy con, ổng quăng điếu thuốc,
đứng lên vẻ ngạc nhiên: “Ăn
gì mau vậy cậu ?”. Con nói trớ: “Thấy
không ngon nên không ăn”. Rồi con nói
tiếp: “Bây giờ, tôi trả xe lại cho
bác đó ! Bác cứ giữ nguyên số
tiền tôi đưa hồi sáng, đừng thắc
mắc. Tôi đi bộ chơi lanh quanh được
rồi”. Nói xong con bước đi, lâu
lâu ngừng coi cửa hàng này cửa
hàng nọ. Thấy ông già cứ đạp
xe rề rề đi theo, con bèn gọi một xe Honda
ôm đang đợi khách ở ngã tư
đường, trèo lên “ôm” đi thẳng
!
Kể xong, Trung hỏi: “Nhà
Nước đang có lịnh cấm sử dụng xe
xích lô xe ba gác, không biết bây giờ
ông già đạp xích lô sẽ sống
làm sao, hả bác ?”. Tôi nói: “Ờ
...”. Rồi nín luôn. Một cách trả lời
để không trả lời !
NÓI: HẾT RỒI
!
Một ông bạn ở Paris cho
tôi uống một thứ trà Tàu đặc
biệt ổng đem từ bên Mỹ về. Ổng cầm
cái hộp vuông màu xanh ve chai đưa
lên khoe: “Trà này bên nây chưa
có. Nó tên là Trà Vương. Hộp
150 gr này tôi mua bên Mỹ giá là 15
đô đó!”.
Trà ngon thiệt! Vị ngọt phớt
chớ không đắng hay chát như loại
trà Tàu khác và nhứt là mùi
thơm rất “vương giả” chớ
không phải mùi lài hay sói hay sen như
thường thấy. Uống cạn chén trà,
hương trà còn đọng lại trong
đáy chén phất lên mũi gợi thèm
mùi vị đặc biệt này ! Ông bạn
tôi nói Trà Vương có nhiều số,
nhưng số 103 là ngon nhứt !.
Tôi đã đi lùng sục
ở Paris nhưng không thấy bán loại
Trà Vương này. Một hôm, đi với vợ
tôi ở khu 13 chợ Tàu, tôi chợt thấy
một bà Á đông cầm một hộp
vuông màu ve chai vừa quơ quơ ra dấu vừa
nói chuyện với hai bà khác cùng ngồi
trên băng gỗ vỉa hè. Tôi bước lại
nhìn: thì ra đúng là hộp Trà
Vương ! Mừng quá ! Nghe mấy bà
đó nói tiếng Việt Nam nên tôi hỏi
ngay: “Phải Trà Vương không
bà?”. Bả quay qua tôi, trả lời cụt
ngủn: “Ờ ! Mà hết rồi!”. Rồi
quay về tiếp tục nói chuyện với hai
bà kia. Tôi chen vào: “Xin lỗi ! Bà mua ở
đâu vậy ?”. Lần này, không quay lại
nhìn tôi nhưng bả vẫn trả lời:
“Mà tôi nói hết rồi !”. Tôi
không dám cười, sợ bả bị chạm tự
ái. Tôi vẫn ôn tồn hỏi: “Dạ !
Nhưng xin bà làm ơn cho tôi biết bà
mua ở đâu vậy ?”. Bả nhìn tôi,
chắc coi tôi có ... khùng không mà cứ
lải nhải hỏi hoài. Rồi bả cầm
cái hộp lia lia về hướng phía dưới
con đường một chiều: “Dưới kia
kìa”. Tiếp theo là bả gằn từng tiếng:
“ Tôi-nói-hết-rồi !”. Tôi cám
ơn rồi kéo vợ tôi đi “mò”
dài dài xuống “dưới kia kìa”,
tiệm nào cũng vô kiếm Trà Vương
! Khi đi gần ... rã chân thì vào một
siêu thị lớn. Họ nói: “Có !.
Nhưng mà hết rồi!”. Hỏi chừng
nào có nữa, họ trả lời không biết
! Thì ra bà già hồi nãy nói
đúng. Bả đã tốt bụng
“nói cho thằng chả biết là hết rồi
để thằng chả khỏi phải lội xuống
tuốt dưới kia xa thấy mồ chớ bộ”
!
Các bạn có thấy chuyện
nhỏ này dễ thương không? Bà
già đó, cho dầu có lưu vong ở
chân trời góc biển nào đi nữa,
bà vẫn giữ nguyên phong cách Việt Nam.
Trân quí lắm, các bạn à !
CHUYỆN Ở QUÊ
TÔI.-
Má tôi mất vào ngày
đưa Ông Táo. Thằng con lớn của
tôi đi với má nó về Việt Nam lo ma
chay. Ông thầy làm đám (phái Cổ
Sơn Môn thường gọi là thầy
cúng) là ông thầy Non. Cái tên
này do má tôi đặt ra để tránh
gọi “Thầy Con” vì ổng là con
ông thầy Cả, ông này là bà con
kêu má tôi bằng cô và là bạn
học của tôi từ thời tiểu học ở
trong làng. Kể như vậy để thấy thầy
Non đối với gia đình tôi không phải
là ngưởi xa lạ.
Sau đám ma, thầy Non lấy Honda
chở con tôi đi đầu trên xóm dưới
thăm bà con và cũng để xem vùng
quê ăn Tết. Đang chạy trên đường
xóm Nhà Máy, thấy một ông lái mô
tô đi cùng chiều chở phía sau một chậu
mai. Thầy Non nói với con tôi: “Coi kìa !
Cây mai đẹp quá kìa !”. Rồi thầy
chạy kè theo để con tôi thấy rõ
hơn. Ông chở mai quay qua nhìn, con tôi
nói lớn cho ổng nghe: “Cây mai đẹp
quá !”. Ông đó nói: “Ờ !
Mà không có bán !”. Vì tiếng
máy mô tô ồn quá nên con tôi phải
nói lớn hơn cho ổng nghe: “Không !
Tôi chỉ muốn nói là cây mai của
ông đẹp quá hà !”. Ổng có vẻ
bực mình: “Ờ ! Người ta nói
không có bán là không có bán
!”. Rồi ổng vọt ga chạy thẳng, làm
thầy Non phải ngừng xe lại để cả hai
cùng ôm bụng cười ! Sau đó, lại
tiếp tục đi. Một lúc, thấy một
ông chạy Honda chở thằng nhỏ ngồi
phía sau đâu lưng với ổng, ôm trong
lòng một quày dừa tươi. Con tôi, nhớ
lại vụ cây mai, muốn phá chơi nên hỏi
chọc: “Dừa có bán không vậy
?”. Thằng nhỏ thúc cùi chỏ vào
lưng người lái xe: “Ba ! Ba ! Thằng chả
hỏi có bán dừa không kìa !”.
Người đàn ông làm thinh nhưng
có vẻ suy nghĩ. Bỗng, ông ta la lên “Ừa
! Bán !” rồi tấp xe vào lề ngừng lại.
Thầy Non nói: “Ở chùa thiếu gì dừa
! Mua chi vậy ?”. Hỏi chơi mà đâu
có dè ổng bán nên con tôi
đành mua một trái. Ông đó
nói: “Dừa tôi mua cho vợ tôi kho thịt
ăn Tết. Thấy cậu hỏi mua, tôi nhường
một trái cho cậu uống chơi !”. Con
tôi nói cám ơn mà không dám
cười ! ...
Sau hơn ba mươi năm “đổi
đời”, cái thật thà chân chất của
quê tôi, may quá, vẫn còn nguyên như
cũ !
BÁN VÉ SỐ.-
Trên chiếc bắc Mỹ Thuận.
Chiếc bắc chở đầy nhóc xe và
người, ùng ục qua sông. Mấy người
bán dạo rao hàng inh ỏi. Vợ chồng
tôi đứng ở khoảng trống phía đầu
chiếc bắc, nhìn sông nước minh mông với
những dề lục bình xanh biếc nhấp nhô
trên sóng nước. Mùa này, lục
bình bắt đầu nở bông nên thấy
có màu tim tím e ấp lấp ló giữa
những bựng lá to láng mướt. Đẹp
quá ! Sau hăm mấy năm xa xứ, bây giờ
có dịp về thăm, chúng tôi thấy
cái gì cũng đẹp ! Nước sông
đục ngầu phù sa ... cũng đẹp ! Chiếc
ghe bầu phình bụng chở lúa khẳm lừ
tưởng chừng như sắp chìm ... cũng
đẹp ! Chiếc đò ngang hay đò dọc
gì đó dài thòn có cái mui bằng
phẳng thấp lè tè, hai bên hông trống
trơn không có gì che chắn, lướt
sóng chạy bắn nước như giành
sông với những ghe thuyền khác ... cũng
đẹp !
Bỗng, một bé gái cỡ 10
tuổi đến gần vợ tôi, tay chìa một
tấm vé số, năn nỉ bằng một giọng
trong trẻo nhưng nói khá to để át tiếng
những người bán dạo chung quanh: “Ngoại
ơi ngoại ! Con còn có một vé số
này thôi, ngoại mua dùm con để con
còn về phụ má con lo việc nhà”.
Con bé mặt mũi sáng sủa dễ
thương. Vợ tôi lấy tiền mua vé số
rồi vuốt đầu nó, hỏi: “Nhà con
ở đâu lận ?”. Chắc bả thấy tội
cho con nhỏ, mới có bây lớn tuổi đầu
mà bán xong còn phải lội bộ về
nhà giúp mẹ ! Nó nhìn vợ tôi, mỉm
cười rồi mới trả lời: “Dạ ! Ở
xóm rạch Ngo gần đây hà !”.
Cái cười của nó có duyên vô
cùng. Trước khi đi, nó còn biết
nói: “Cám ơn nghe ngoại !”. Tôi
nhìn theo mà thấy mến cái dáng nho nhỏ
thon thon của nó trong bộ đồ bà ba vải
trắng đã ngả màu bùn non lờn lợt
...
Một lúc sau, tôi nghe ở
hành lang phía bên kia vang lên tiếng lảnh
lót của con bé: “Ngoại ơi ngoại !
Con còn có một vé số này thôi,
ngoại mua dùm con để con còn về phụ
má con lo việc nhà”. Tôi nhón gót
nhìn sang: đúng là nó ! Vợ tôi hỏi:
“Nó hả ?”. Tôi gật đầu
mà không nén được tiếng thở
dài ...
Tôi nhìn ra sông nước với
vài chiếc ghe thuyền đi lại, nghĩ mà
thương cho thân phận người dân bây
giờ ... Tôi buột miệng nói : “ Bây
giờ... sao thấy nhiều lục bình quá hổng
biết ” ...
Chiếc bắc vẫn ùng ục nhả
khói qua sông ... ráng nhả khói mà qua
sông ...
TIỂU TỬ
(Việt Hải Trần chuyển)