“LẠY NGÀI
...”
(Huy Phương)
Hồi chúng tôi còn nhỏ bé
tí vẫn nghe người lớn tuổi chung quanh dùng
tiếng “Ngài” để gọi Vua Bảo
Đại trong những câu như “Ngài ngự
ra Bắc”, hay để gọi Thần cây đa
cây đề như mỗi lần mẹ tôi
xuýt xoa khấn vái một điều gì
“trăm lạy Ngài linh thiêng phù hộ...”. Đó là cái thời vừa
phong kiến vừa mê tín dị đoan
đã qua, bẵng đi đã lâu khoảng chừng
ba mươi năm, tôi lại nghe chính miệng
người Cộng Sản nói hay dùng trong
các văn bản tiếng “Ngài” một
cách khá khúm na, khúm núm với
các chức vụ như Tổng Thống, hay Đại
Sứ nước ngoài. Thật tình đây
là bản dịch tiếng Việt nên các
Ngài này cũng không được đọc
và hiểu chúng gọi mình bằng danh
xưng nào, nhưng chủ ý điều này
chỉ để cho người dân biết là
mình đã trang trọng thế nào đối
với những nhân vật ngoại giao quốc tế.
Tiếng Ngài được dùng khi gọi
một nhân vật tôn giáo để tỏ
lòng tôn kính nghe không chướng tai, nhưng khi dùng cho một nhân vật
chính trị nghe có vẻ vướng vất một
chút hèn hạ như người đi xin ân
huệ. Trước đây trong một chương
trình phỏng vấn truyền hình, một
ký giả đã có sáng kiến dùng
một danh từ đã lâu không ai dùng,
để gọi ông Nguyễn Cao Kỳ bằng
“Ngài” nghe đã lạ tai, nay lại
được biết ông Nguyễn Cao Kỳ lại
dùng tiếng “Ngài” để tâng bốc
cái ông đối thủ ngày trước, nhỏ
tuổi hơn ông là Nguyễn Minh Triết bằng
tiếng “Ngài” như lời ông phát
biểu trong một bản tin của báo Vieweekly:
“Tôi không ngần ngại gọi những
nhà lãnh đạo hiện hữu là
ngài, vì đó là thủ tục tối
thiểu, tôi cũng là một người
lãnh đạo quốc gia”.
Thật là mỉa mai và xấu hổ hết
chỗ nói ! Có ai bắt
ông Kỳ phải khúm núm gọi ông Triết
bằng Ngài đâu, mà chỉ cần gọi
“Ông Chủ Tịch” đúng với chức
vụ, cũng như trước đây người
ta chỉ cần gọi ông là “Ông
Phó Tổng Thống” là đủ. Nếu hồi
đó có thằng nào nịnh bợ xin xỏ
ông một ân huệ nào mà gãi đầu
gãi tai trước mặt ông, gọi là
“Ngài Phó Tổng Thống” thì
ông đã điên tiết lên mà bợp
tai đá đít nó, vì tôi biết
tính ông cũng nóng nảy mà ngang ngược
lắm, có đời nào đứng yên để
nghe lời nịnh bợ trơ trẽn như thế.
Chuyện này làm tôi chợt nhớ
đến một chuyện ngụ ngôn La Fontaine,
“Thần Chết và Lão Tiều Phu” (La
Mort et Le Bucheron). Ông tiều phu khổ
quá than thở muốn chết đi cho xong, bèn gọi
tên Thần Chết, nhưng khi Thần Chết hiện
ra thì ông lại sợ quýnh lên, líu
lưỡi gọi Thần Chết là Ngài:
“Nhờ tay Ngài nhắc đỡ (bó củi)
lên vai ...” (bản dịch rất Việt Nam của
học giả Nguyễn Văn Vĩnh). Thường
thường khi gọi ai bằng Ngài là lòng
ta đã run sợ lắm, kiểu như ông tiều
phu ở trên và bà mẹ tôi mỗi
lúc con cái trở trời ấm đầu
thì ra cái miếu sau nhà hay dưới gốc
cây đa mà kêu Ngài lia lịa vì sợ
Ngài quở hay Ngài phạt.
Khi một người đứng trước một
người, mà giở cái giọng thưa bẩm,
gọi người đối diện bằng Ngài
thì ta cũng thấy con người đó nhỏ
nhoi tội nghiệp chừng nào, chưa nói đến
cái tư cách run sợ, khép mình để
cầu xin ân huệ của người ấy.
Một chuyện khác là, tôi cũng
không hiểu vì sao trong văn thư của Chủ
Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ở
Nha Trang gởi cho Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết,
đề ngày 7 tháng 7-2007, mà chúng ta
đọc được ở hải ngoại, lại viết
là: “Cụ Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch
Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam”, rồi lại “Kính thưa Cụ
Chủ Tịch”, cuối cùng là
“Kính chúc Cụ sức khoẻ”. Chữ
Cụ trong văn thư này có cần thiết không ? Cụ Triết
còn trẻ lắm, chắc chắn là dưới
thất thập, cụ Triết lại chưa có
râu, gọi cụ ấy bằng cụ chắc cụ ấy
buồn hơn là vui.
Theo ngôn ngữ Việt Nam, chữ “Cụ”
không dùng cho chức tước mà chỉ
dùng để tỏ lòng kính trọng đối
với một người già như Cụ Phan Bội
Châu, Cụ Nguyễn Hải Thần, Cụ Phan Chu
Trinh, hay chưa già như Cụ Ngô đối với
dân miền Nam (cụ Ngô về nước chấp
chánh mới có 47 tuổi) cụ Hồ đối
với dân miền Bắc (được làm
là chủ tịch cũng ở tuổi xem-xem), vì
người ta không thể gọi là Cụ Tổng
Thống hay Cụ Chủ Tịch.
Thời Pháp thuộc, phong kiến, ở
thôn quê, vì nỗi sợ hãi đối với
những người cầm quyền có thế lực,
người dân đen đã dùng tiếng Cụ
để gọi các ông Lý Trưởng,
Phó Lý như trong chuyện “Tắt
Đèn” có nhân vật chị Dậu.
Thị Mịch trong Giông Tố thì van lạy
Nghị Hách bằng danh từ “Quan”: “Xin
Quan tha cho con !”. Thời Pháp hễ
ai có chút Tây học hay tham gia chính quyền
đều được gọi bằng Quan như Quan
Chánh, Quan Quản kể cả vào nhà
thương thì lạy Quan Đốc Tờ, vào
trường xin cho con đi học thì lạy Quan
Đốc Học. Vì vậy Quan cứ hếch mặt
lên, coi đám dân đen như cỏ rác.
Nhiều khi chúng ta chê ngôn ngữ
Tây Phương nói về danh xưng, vai vế ai
cũng cá mè một lứa “ toi,
moi” hay “you, me”, nhưng nói về chữ
nghĩa Việt Nam, thì những Cụ, những
Ngài, những Quan nghe nhiều khi phát mệt
và thường tỏ ra cái tinh thần tôn
kính quá đáng, mang đầy mặc cảm
tự ti.
Từ khi miền Nam được nếm
mùi Cộng Sản, thì danh xưng lại
được “cách mạng hoá” triệt
để. Cấp
trên, cấp dưới gọi nhau như bà con
trong nhà, như hồi mới ở trong bưng, mới
nghe qua tưởng như bình dân, thân mật
lắm. Nhân viên thì gọi Giám Đốc,
Trưởng Phòng bằng Bác Năm, Chú Ba
... nhưng chú Ba thì cấu mông cháu
thư ký, bác Năm thì nhìn nữ
nhân viên như Chó sói nhìn
“cô bé ... quàng khăn đỏ”.
Bác Hồ thì “mục hạ vô
nhân”, tất cả các ông già bà
cả cho tới đàn bà con nít đều
một tiếng “Bác Hồ”, hai tiếng
“Bác Hồ”, mà chẳng nghe ai than phiền,
khiếu nại.
Chúng ta gọi ai bằng Ông,
Bà cũng đủ tỏ lòng kính trọng. Người viết sử cũng
có thể viết ông Hồ Chí Minh hay ông
Ngô Đình Diệm mà không sợ ai
nói vô lễ hay xấc xược. Có
chăng là ở thái độ tự ty của
người gọi và sự tôn xưng quá
đáng cho người được gọi.
Không biết những nhà “cách mạng vô
sản” như Nguyễn Minh Triết nghĩ sao khi
được người khác gọi là
“Ngài” hay “Cụ”, còn liêm sĩ
thì biết ngượng ngùng, không thì
mang thêm mặc cảm tự cao tự đại.
HUY PHƯƠNG
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)