Đôi Mắt
(Trần Trung Ðạo)
Đôi mắt. Vâng, đôi mắt của
người con gái đứng bên kia
hàng song sắt nhìn về phía tôi. Cô gái vẫn đứng đó mỗi
đêm để nghe tôi hát. Một khoảng cách không xa lắm
nhưng tôi và cô như đang thuộc về
hai thế giới khác nhau. Cô gái đang
bị giam trong khu nữ hình sự tối tăm,
và tôi ở bên ngoài, còn một
chút tự do. Mấy tuần trước đó,
tôi chỉ nhận ra bóng mờ của cô
gái qua đôi mắt sáng. Mãi cho đến
đêm trăng rằm, khi bóng một người
con gái với mái tóc học trò chấm
ngang vai dần dần hiện ra rõ nét, soi
nghiêng nghiêng trên bờ tường vôi
loang lổ của một trường tiểu học
được sửa thành trại giam thị
xã, tôi mới biết cô là một cô
gái còn rất trẻ. Những đêm
trăng như thế, tôi thấy bóng cô
gái ngã dài ra ngoài song sắt, đôi
tay nhỏ vịn vào thanh sắt rỉ,
khuôn mặt trái soan nhu hòa đang nhìn về
phía có tiếng đàn của tôi.
Giòng sông nào đưa
người tình đi biền biệt
Mùa thu nào
đưa người về thăm bến xưa
Hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời
mơ
Về đồi sim, ta nhớ người
vô bờ
Ta vẫn chờ em dưới gốc
sim già đó
Để hái dâng người một
đóa đẫm tương tư
Đêm nguyệt cầm ta gọi em
trong gió
Sáng lung linh hồn ta khóc bao giờ
….
Bài "Thu Hát Cho Người" của Vũ
Đức Sao Biển đi theo tôi từ những
ngày còn ở Đà Nẵng. Thành phố
đó, ngày xưa, những buổi chiều
tôi thường ngồi dưới gốc cây đa trước
sân phường Thạc Gián, bên hẻm 220
Hùng Vương và khóc tuổi thơ bay.
Khi tôi lớn lên, bài hát theo tôi vào đại học. Những
đêm hè không ngủ được trong
căn gác trọ trên đường Kiều
Công Hai, tôi thường ôm đàn ra
ngoài hiên ngâm nga Thu Hát Cho Người.
Bài hát có sức thu
hút đến nỗi cả phòng bọn tôi
đứa nào cũng thích và tập bài
hát đó. Một tên bạn cùng
phòng, Trần Thanh Liêm, cũng nhờ bài Thu
Hát Cho Người mà quen được cô
gái cưng con ông chủ một pharmacy đầu
phố đẹp tuyệt vời. Sau 1975, Liêm cưới
cô ta làm vợ và đưa nhau về lại
Đà Nẵng. Tôi ở lại Sài Gòn,
kéo lê lết cuộc đời sinh viên trong
“thiên đường xã hội chủ nghĩa”
với khoai mì và bo bo cho đến 1979 thì bọn
tôi bảy đứa cùng rủ nhau vượt
biên qua ngã Bạc Liêu.
Dĩ nhiên như đã kể,
cả bọn chúng tôi đi hụt và bị
bắt một lần.
Công an phường Bảy, thị
xã Bạc Liêu trói cả nguyên băng
đưa về trại giam thị xã, chờ
làm thủ tục giải đi trại Cây Dừa.
Má tôi từ Sài Gòn khó
khăn và tốn kém lắm mới đến
thăm được một lần. Tôi
khuyên má tôi đừng xuống nữa: “Ở
tù thời gian con sẽ về. Thời
buổi này, vượt biên ở tù như
đi chợ, chẳng phải tội trạng gì nặng
nề, má đừng đi xa vất vả”.
Má tôi tạm yên tâm ra về.
Bọn tôi bảy đứa, cùng với
40 tù nhân khác, bị giam trong một phòng
học. Bọn tôi là những kẻ đến
sau nên bị tên tù trưởng, tiếng
lóng để gọi tên Trật Tự Phòng,
xếp nằm sát thùng cầu. Mùi
hôi thối bốc lên. Mấy ngày đầu
không ăn được,
đêm không thể nào chợp mắt
được. Thông thường, sau khi làm xong thủ
tục, tù vượt biên bị chuyển hết
về trại Cây Dừa, một trại tù thật
sự, nổi tiếng khắt khe ở miền Tây,
có dạo nhốt cả chục ngàn tù
vượt biên. Nghe đâu hình
phạt đầu tiên trong ngày nhập trại
là cạo trọc đầu. Nếu không biết
cách đút lót cho đám cán bộ,
công an tỉnh, mỗi tù vượt
biên sẽ bị giam từ sáu tháng đến
một năm trước khi được trả tự
do. Nhiều tù vượt biên bị
nhốt cả hai ba năm, đơn giản, vì
tù quá đông nên tên trong sổ
sách tù nhân nhiều khi bị thất lạc.
Không hiểu sao, lần đó,
trại trưởng trại giam thị xã đổi
ý giữ bọn tôi lại. Một buổi sáng, trại trưởng
Nguyễn Văn Ninh tập trung bọn tôi trong sân
trại, với giọng Bắc nặng chịch, lên
cơn giảng huấn một hồi, đại ý:
“Các anh có học và còn quá trẻ,
chỉ vì nghe lời dụ dỗ và lường
gạt mà cam tâm bỏ tổ quốc ra đi. Lẽ
ra các anh bị đưa đi Cây Dừa giam
và lao động một năm, nhưng sau khi đọc
các bài tự kiểm, nhận thấy các anh
có ý thức, biết việc làm sai trái
của mình, chúng tôi khoan hồng và giữ
các anh lại để lo công việc của trại.
Các anh được ở trong căn nhà lá
cuối trại, được phân công lao động và kiểm soát lẫn
nhau. Sau một thời gian, ít nhất là 4
tháng, nếu các anh chứng tỏ hành vi tốt,
lao động tốt, chúng tôi sẽ đề
nghị lên Ủy Ban Nhân Dân Thị Xã trả
tự do cho các anh”. Trại trưởng Nguyễn
Văn Ninh ngừng vài giây trước khi gằn
giọng: “Điều quan trọng các anh phải
ghi nhớ, bất cứ người nào trong số
các anh trốn trại, số còn lại sẽ bị
còng 3 tháng trong phòng tối và chuyển
đi Cây Dừa. Nếu kẻ trốn trại
mà bị bắt chúng tôi sẽ bắn bỏ
ngay tại chỗ”.
Thế là nhờ tài viết
lách khéo mà bài tự kiểm của bọn
tôi lọt được vào mắt xanh của trại
trưởng. Trong trường
đại học, bọn sinh viên chúng tôi
là một nhóm văn nghệ, làm thơ viết
lách nên nếu cần phải lách để
sống còn, bọn tôi lách không đến
nỗi tệ lắm. Nhớ lại mấy
tuần trước đó, bảy đứa bị xếp
ngồi một hàng dài như thuở đi thi
tú tài, trong văn phòng ban quản lý trại,
vừa viết tự kiểm vừa nhìn nhau cười.
Một băng bảy thằng gian mắc nạn bóp
trán nghĩ ra mọi điều hợp lý
và thê thảm nhất trên đời để
trả lời câu hỏi số một và quyết
định “động cơ nào đã
làm cho anh bỏ tổ quốc ra đi”. Không
giống như các tội chống phá cách mạng
phải biện luận quanh co, liên hệ đến
người này người khác, chuyện vượt
biên chỉ quanh đi quẩn lại những lý
do nghèo nàn, cha mẹ già em đông,
chén cơm manh áo, bị bạn bè rủ
rê mà bỏ tổ quốc ra đi, bây giờ
thì hối hận ơi là hối hận, chỉ
mong được cách mạng khoan hồng, thề sẽ
làm lại cuộc đời, tình nguyện
đi thanh niên xung phong, làm thủy lợi, an phận
học hành, làm đúng khẩu hiệu
“góp phần xây dựng đất nước
tươi đẹp hơn mười lần hôm
nay”, sẽ không bao giờ tái phạm,
v.v…và v.v… May mắn thay, dù
viết toàn là chuyện vô hại mà kết
quả lại thành công ngoài sự tưởng
tượng. Về sau, tôi cũng biết
thêm, ngoài lý do viết lách, bọn
công an còn tin tưởng rằng nếu được
phân công nấu ăn, phân phối cơm nước,
bọn tôi sẽ không ăn cắp thức ăn
như đám tù hình sự đầu trộm
đuôi cướp đói rách đã
làm từ trước tới nay.
Trại giam chúng tôi ở chỉ
có 3 phòng giam, một dành cho nữ và hai
phòng dành cho nam. Tổng số tù nhân chỉ vào khoảng
100 người. Trại thuộc quyền
quản lý của thị xã và là nơi
giam các tội hình sự nhẹ như trộm cắp
vặt, đĩ điếm, đánh lộn, buôn
bán gian lận chợ trời, móc túi.
Những tội đại hình, tội chống
phá chính quyền đều bị chuyển qua
các trại tù xa xôi trong vùng U Minh rừng
sâu nước độc, được gọi bằng
cái tên vô cùng nhân hậu là
“trại cải tạo” và trực tiếp
đặt dưới quyền quản lý của Bộ
Nội Vụ Cộng Sản. Việc canh gác ở trại
thị xã cũng không có gì gọi
là quá chặt chẽ. Mỗi ngày tù
nhân phải đi lao động từ
sáng đến chiều. Đàn
ông thì đi làm ruộng, đàn bà
thì nhổ cỏ, tưới rau. Suốt hai
mươi bốn giờ, công an thay
phiên ngồi canh phía ngoài sân trại. Thỉnh
thoảng, anh chàng đứng dậy, thả bộ dọc
hành lang mỗi phòng để
coi ngó đám tù. Mặc dù an ninh lỏng lẻo nhưng từ ngày
trại được thành lập đến nay
chưa xảy ra một vụ trốn trại nào.
Lý do vì đa số tù nhân là người
trong làng, trong xóm, trong thị xã. Từ
công an cho đến tù nhân
đều biết nhau. Nhiều khi lại
còn là bà con giòng họ với nhau
nên dù có trốn lên trời cũng
không thoát. “Đi mô rồi
cũng về Hà Tĩnh” như đám
tù nhân thường nói. Hoàn cảnh
bọn tôi còn tệ hơn thế. Trốn cả
đám bảy thằng thì không được,
trốn từng đứa thì không khó
nhưng làm sao nỡ bỏ bạn bè ở lại
chịu đòn. Mai mốt về Sài
Gòn còn mặt mũi nào ngó nhau. Trại trưởng Nguyễn Văn Ninh
đã từng cảnh cáo trước đó
sao, cứ một thằng trốn được thì
cả bọn còn lại mang tội thay. Không
đứa nào muốn bị còng 3 tháng
và đày đi Cây Dừa thêm một
năm. “Phải an toàn rút
về lại Sài Gòn rồi mới bày keo
khác”. Cả bọn đồng ý như thế
và ngoéo tay nhau ở lại cho
đến ngày được trả tự do.
Tôi ốm yếu nhất trong bọn
nên được giao cho công việc dắt
người đi nhổ cỏ rau muống. Ban đêm, nếu trời không
mưa, tôi thường ngồi trên bệ
đá phía cuối sân trại, tay
gõ muỗng, miệng ngâm nga những bài
hát cũ cho đỡ buồn. Một cán bộ
người miền Nam,
tên Hoàng, có máu văn nghệ, nghe
tôi hát, cũng tới gần nghe. Dĩ nhiên
trong những lúc như thế tôi thường
hát những bài dân ca hay tình ca vô tội
vạ. Khi được đề nghị đóng
góp một bài, anh chàng công an gốc du
kích Bạch Liêu, chơi ngay bài
“Đêm Buồn Tỉnh Lẻ” với gọng
Chế Linh đặc sệt. Tôi buồn cười
thầm nghĩ anh chàng này không biết
và cũng không hiểu gì về nội dung của
bài hát. Dù là du kích trở
thành công an xã, anh ta sinh ra
và lớn lên ở miền Nam,
và đương nhiên vẫn thích hát nhạc
miền Nam
hơn là những giọng ca the thé miền Bắc
mà chính anh cũng có lần tâm sự:
“tôi không hiểu họ đang hò hét
chuyện gì”. Mấy ngày sau, anh chàng
công an Hoàng ngứa nghề, ra
xóm tìm một cây đàn guitar đem về
nhờ tôi dạy anh đàn. Cây
đàn cũ, từ lâu không ai sử dụng,
chủ của nó chắc đã vượt
biên, đóng đầy bụi nhưng nghe cũng
xốn xang trong những đêm khuya thanh vắng. Và cũng từ bệ đá
đó, tôi nhận ra đôi mắt Bích
Vân như hai ánh sao đêm hiện ra từ
khung tối.
Đúng, tên cô gái
là Bích Vân. Tôi biết tên nàng trong một buổi
chiều đưa đám nữ tù đi nhổ
cỏ ở bãi rau muống sau trại. Cô
không đẹp như sự tưởng tượng
quá sức phong phú của tôi qua ánh
trăng lung linh huyền ảo đêm nào nhưng
là cô gái dễ thương, đẹp nhu
hòa pha một chút hồn
nhiên của thời học trò chưa qua hết. Tôi không hỏi nhưng đoán chừng
cô ta khoảng hai mươi tuổi. Bích
Vân nhìn tôi: “Anh hát rất hay.
Bích Vân nghe đến thuộc lòng nhưng
không biết bài hát đó tên gì ?” Tôi đáp:
“Đó là bài Thu Hát Cho Người
của Vũ Đức Sao Biển”. Bích Vân
nhỏ nhẹ: “Bài hát hay, người
hát hay và tên của người viết bản
nhạc cũng hay”. Những người
bạn tù của Bích Vân hình như
đã biết chuyện cô ta thường đứng
cửa sổ nghe tôi hát nên mỉm cười
nhìn chúng tôi với ánh mắt trêu chọc.
Một bà đứng tuổi buột miệng:
“Hèn chi mấy ngày nay cổ tình nguyện
làm cả công tác đổ cầu tiêu
để được ra ngoài”. Bích
Vân đỏ mặt cúi đầu.
Và cứ thế, mỗi chiều nhổ
cỏ rau muống, trên đường đưa
nhóm nữ tù về lại phòng, chúng
tôi có vài phút nói chuyện với
nhau. Vì sợ
công an bắt gặp, chúng tôi không
dám nhìn thẳng nhau lâu chứ đừng
nói gì là một cái nắm tay. Hai đứa giả bộ nhìn trời
và nói những câu ngắn ngủi: “Anh
quê ở đâu ? ” Tôi
đáp:” Quảng Nam Đà Nẵng”.
Nàng lại hỏi: “Xa quá nhỉ. Gia đình em cũng gốc miền Trung
nhưng vào Nam
từ khi em mới ra đời. Ba mẹ anh vẫn
còn ngoài Quảng hay đã vào Sài Gòn ?” Tôi lại đáp:
“Sài Gòn”. Cứ thế,
cô ta như một cô giáo đang hỏi
bài học trò. Từ chuyện
gia đình cho đến chuyện trời mưa trời
nắng. Bích Vân thích hỏi
nhưng không thích trả lời. Cô
không thích nói về mình. Nhiều
khi nếu phải nói, cô ta không bao giờ khẳng
định, chỉ ầm ừ cho qua chuyện.
Một buổi chiều trong giờ giải lao, dựa
lưng vào tường, Bích Vân chợt
khám phá ra những dòng chữ trẻ con
còn in dấu dưới hàng rêu trên bờ
tường trại giam, mắt nàng chợt sáng
lên một cách hồn nhiên đưa tay chỉ
vào hàng chữ nguệch ngoạc đã nhạt
nhòa theo năm tháng: “Anh biết không,
đây là trường tiểu học cũ của
em. Hàng chữ kia làm của đám bạn
bè em viết hồi lớp năm”. Giọng
nàng trầm xuống trong cay đắng: “Trường
bây giờ là nhà tù và em về ngồi
trong lớp học nhưng không phải là học
trò cũ mà như một tù nhân. Mỉa
mai quá anh nhỉ ?” Nếu
đây là quán café hay trong sân trường
đại học, có lẽ câu chuyện trường
học biến thành nhà tù là một
đầu đề để máu Quảng tôi
sôi lên, thao thao bất tuyệt về cách mạng,
nhân quyền, cơm áo. Nhưng
trước mặt Bích Vân, tôi nghẹn lời
không nói được.
Trước mắt tôi không phải là một
đề tài, một câu chuyện, một viễn
ảnh mà là một thực tế, một con
người bằng xương bằng thịt, một
người con gái tuổi hai mươi đang chịu
đựng nỗi bất hạnh của một giai đoạn
lịch sử thảm khốc. Những nạn
nhân vô tội đầy thương tích
đang quằn quại trong màn cuối của một
vở thảm kịch quê hương. Tôi cố
làm vơi bớt chút đau xót trong lòng
cô bằng những triết lý vụn học
được trong những quán café ngoài
Thư Viện Quốc Gia ngày nào: “Không
ai biết chắc những gì sẽ xảy ra cho đời
mình, nhưng một điều mà anh và em
có thể biết được, làm được
trong hoàn cảnh này là tìm cho mình một
hy vọng để sống và phải sống trọn
vẹn cho hy vọng đó. Sự kỳ
diệu không bao giờ đến nếu không
có hy vọng”. Bích Vân trả lời
trong lúc vẫn nhìn đăm đăm vào
hàng chữ: “Cám ơn anh, em sẽ nhớ
những điều anh dặn, hãy hy vọng và rồi
sự kỳ diệu sẽ đến”. Tôi muốn
cầm tay nàng nhưng không
dám. Hai đứa đứng bên nhau dưới
chân tường trại giam và cũng là
trường học cũ của Bích Vân, lắng
nghe tiếng vịt kêu và thầm mong những tia nắng của buổi chiều vàng
thơ mộng kia đừng bao giờ tắt.
Một lần trong lúc chờ Bích Vân rửa
tay sau buổi chiều nhổ cỏ: “Tại sao
Bích Vân phải vào đây ?”
Bích Vân vẫn cặm cụi rửa tay như không nghe tôi hỏi,
mãi đến khi tôi lập lại câu hỏi
lần thứ hai, nàng mới đáp thật nhanh
và thật nhỏ: “Em buôn thuốc tây
và bị bắt”. À ra thế,
tôi yên tâm tự nhủ. Một người
con gái nhỏ nhắn, xinh đẹp và hiền hậu
như Bích Vân không thể nào đi ăn
trộm ăn cướp của ai để
bị bắt. Thấy tôi không nói gì
thêm, nàng ngước mặt: “Anh đang suy
nghĩ gì, không tin em sao ?”
Tôi vồn vã ra mặt: “Anh tin chứ, anh tin
chứ, anh tin một người như em không thể
làm chuyện gì thương luân bại
lý, còn chuyện buôn thuốc tây, rủi
gặp xui thì bị bắt, có gì mà ngại,
ra tù đi buôn tiếp”. Vai nàng chợt rung lên và hai hàng
lông mày cong của nàng nhíu lại
nhưng không nói gì. Chuyện ở tù của
tôi, Bích Vân hình như đã biết
đám sinh viên bọn tôi bị bắt
vì tội vượt biên, nên nàng
không hỏi lý do, thay vào đó, Bích
Vân hỏi về những dự tính sau khi tôi
được thả: “Ra tù, anh có tìm
cách vượt biên nữa không ?” Tôi
chẳng chần chừ: “Đương nhiên. Anh không còn đất sống nào
khác nữa. Giấy tờ bị tịch thu, hộ khẩu bị cắt. Anh không còn là dân của nước
này nữa. Anh chỉ còn một con
đường là đi cho đến khi nào
đi được mới thôi”. Bích
Vân trầm ngâm không nói. Nàng
ngước nhìn đám mây xanh như tên
nàng đang bay vô định trên bầu trời,
mãi một lúc sau mới hỏi: “Anh ước
mơ gì nhất bây giờ ?”
Tôi suy nghĩ khá lâu rồi đáp:
“Anh có quá nhiều ước mơ và tất
cả gần như đồng hạng”. Và
tôi nhìn thẳng vào đôi mắt
Bích Vân hỏi nàng một cách nghiêm
trang: “Ra tù anh sẽ tìm cách để
đi tiếp, Bích Vân, em có thể cùng
đi với anh không ?” Nàng
lắc đầu, nói như vừa đủ tôi
nghe: “Không, em còn mẹ và ba đứa em
nhỏ. Ba em không biết sống chết
nơi đâu. Em phải ở lại để
lo cho mẹ và các em”. Và nàng nghẹn
ngào: “Anh có biết rằng anh đang
tàn nhẫn một cách hồn nhiên không ?” Bích Vân không chờ
tôi phản ứng hay biện bạch, nàng xoay
người bước đi, cố giấu hai giọt
nước mắt đang lăn
tròn từ đôi mắt buồn như mùa
đông. Nàng vội vã bước
vô phòng giam nữ như đi tìm một chỗ
yên tĩnh để được khóc một
mình.
Hai tháng sau, Bích Vân
được thả. Trong cảnh nhộn nhịp của ngày thả
tù, tôi không nói với Bích Vân
được gì nhiều. Vả lại,
chẳng biết gì để nói. Tôi còn không lo nổi cho tôi
thì còn lo cho ai khác được. Lời hứa hẹn của một tên
tù thì có gì giá trị. Hai đứa đứng trong sân trại.
Bích Vân nói bâng quơ: “Anh thích
được tự do không ?”
Tôi khẳng định: “Dĩ nhiên, anh cần
ra khỏi nơi này gấp”. Bích Vân lắc
đầu: “Em thì khác, bỗng dưng em
thích ở lại. Anh bảo em phải tìm hy vọng
nhưng chẳng thấy hy vọng nào dành cho em
phía bên kia hàng rào. Ít ra ở đây em còn có
anh”. Tôi đáp: “Em còn mẹ,
còn các em, còn tương lai đang chờ
Bích Vân. Em phải hy vọng và
sống với hy vọng đó”. Bích
Vân chua chát: “Tương lai ư, em không
thích chữ này, nó có thể là
ngày mai và cũng có thể không bao giờ
đến”. Nàng nói tiếp như đang
mơ: “Em thuộc lòng bài hát rồi. Mai này em sẽ tự hát lấy,
không cần anh nữa”. Và nàng một
mình hát nhỏ: “Giòng sông nào
đưa người tình đi biền biệt”.
Tôi nhìn Bích Vân hát và ước
gì chúng tôi biến thành hai con chim họa
mi, cùng bay ra khỏi nơi này mà không ai
hay biết. Chúng tôi sẽ bay đi thật xa,
băng qua khu rừng già, đến bên một
dòng suối mát, nơi đang có đàn
nai tơ đang sống hiền hòa, nơi có những
đồi sim tím ngắt, không một bóng con
người, nơi đó không có nhà
tù, không có chém giết, không có
máu chảy. Như sực nhớ ra điều
gì hệ trọng, Bích Vân bước
thêm một bước gần hơn và nói
như dặn dò: “Em sẽ gởi cơm nước
cho anh mỗi ngày”. Tôi lắc đầu:
“Cám ơn Bích Vân nhưng anh không thiếu
lắm ..”. Tôi
chưa nói hết câu, Bích Vân vụt quay
người hôn thật nhanh vào mặt tôi
và bước đi ra khỏi cổng trước khi
tôi kịp nói năng gì.
Những ngày sau đó, mỗi ngày
tôi đều nhận được thức ăn do một người nấu cơm
tháng trong thị xã đem đến. Nhưng Bích Vân thì không. Người đàn bà đứng tuổi
mang cơm cho tôi biết Bích Vân ghé tiệm
cơm của bà, đặt tiền nấu cơm
và đem cho tôi hàng tháng. Ngoài
ra, nàng không dặn dò gì khác.
Bích Vân, người con gái có đôi
mắt sáng và buồn hiu hắt như hai
bóng sao đêm đó đã không
còn trở lại.
Từ đó tôi cũng
không còn ngồi hát một mình trên bệ
đá cuối trại giam. Tôi không biết đó có phải
là tình yêu hay chỉ là tình người,
tình thương hại. Tôi chưa bao giờ
được hôn nàng, thậm chí chưa một
lần cầm lấy bàn tay xinh xinh
nhỏ nhắn của nàng. Nhưng lòng tôi, mỗi
lúc đêm về, vẫn thấy nhớ dáng
Bích Vân trong những buổi chiều, nhớ chiếc
nón lá rách viền trên luống rau muống,
nhớ mái tóc học trò bay trong chiều
vàng, nhớ những giọt mồ hôi chạy
dài trên vầng trán rộng, và nhớ
mùi hương tóc nồng nàn. Mỗi
đêm, tôi vẫn thẫn thờ nhìn về
phía cửa sổ trại giam như để
tìm đôi mắt Bích Vân, nhưng hai
ánh sao trời kia đã tắt.
Tháng sau tôi được thả. Tuần trước đó, khi vừa
được công an Hoàng báo tin, tôi
năn nỉ người đem cơm tìm dùm
Bích Vân và báo cho nàng biết tôi
sẽ chờ nàng ở quán nước của
dì Năm ngoài cổng trại sau giờ thả. Người đem cơm hứa sẽ giúp
tôi. Nhưng ngày tôi ra tù, Bích
Vân vẫn không đến. Tôi ngồi
một mình đem tâm sự trang trải cùng
dì Năm. Dì Năm lắng nghe chăm chú.
Bà nói với tôi bằng tất cả cảm
thông và hiểu biết: “Cậu về để
tìm cách mà đi. Đừng nghĩ
đến cô ta nữa. Tôi cũng biết
Bích Vân. Hoàn cảnh cô ấy
rất đáng thương nhưng không phải
cô ta vì bán thuốc Tây mà bị bắt
đâu”. Dì muốn nói tiếp
nhưng như chợt biết mình vừa lỡ lời
nên dừng lại, khoát tay:
“Thôi, sắp hết xe về Sài Gòn rồi.
Cậu về đi. Chúc cậu
bình an trong lần đi tới.
Tôi tin Bích Vân sẽ không bao giờ gặp
cậu, dù cậu có ngồi đây suốt
đêm nay, hay đi tìm khắp thị xã cũng
thế thôi. Hai cô cậu chẳng ai
có lỗi gì. Cũng vì
hoàn cảnh thôi. Nếu là cậu, chắc
cậu cũng không có chọn lựa nào
khác. Gặp nhau để làm chi. Cậu
chắc hiểu ý tôi”. Tôi
đứng dậy trả tiền ly nước. Dì Năm không nhận. Bà
dúi tờ giấy bạc vào tay
tôi, ôn tồn: “Cậu giữ để uống
nước dọc đường”.
Chuyến xe đò chót về
Sài Gòn trong khi trời đã tối. Trên bầu trời đầy mây đen,
bỗng xuất hiện lên hai ngôi sao rất xa
và rất nhỏ. Vâng,
đôi mắt Bích Vân, đôi mắt
người con gái đáng thương,
đáng yêu đang nhìn xuống tôi.
Tôi mỉm cười nhìn sâu vào
đôi mắt nàng và thầm hát như
chỉ để mỗi nàng nghe: “Ta vẫn chờ
em dưới gốc sim già đó, để
hái dâng người một đóa đẫm
tương tư”.
Trần Trung Ðạo
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)