Thì Thầm Với
Mùa Thu
Bên nhà trời đã sang đông
nhưng ở đây vẫn còn là mùa
thu. Mùa thu năm nay đến chậm
và ra đi cũng chậm. Giữa tháng mười
một rồi, hôm qua ngay cả một cơn tuyết
nhẹ đến thăm nhưng lá vẫn chưa
rơi hết. Nhiều hàng cây vẫn
còn choàng trên thân chiếc áo màu
vàng .Chung quanh nhà đâu cũng lá
và lá. Mùa thu New England, tuy không
“có gốc sim già đó” nhưng vẫn
nghe đâu đây như có tiếng “thu
hát cho người”.
Những buổi sáng trời không mưa,
như sáng hôm nay, tôi ngồi nghe tiếng chổi
vọng qua từ ngôi chùa nhỏ bên kia đường. Các thầy
trong thiền viện dậy rất sớm. Thay vì dùng chiếc máy thổi
lá như nhiều người ở xứ này,
các thầy vẫn quét lá bằng chổi
như những ngày còn ở Việt Nam. Thật lạ, giữa thị trấn sầm uất
của phía nam thành phố Boston
lại có một khoảng đất nhỏ mang trọn
vẹn một khung cảnh, một nếp sống Việt
Nam.
Thiền viện với mái ngói cong, với tiếng
chuông ngân dài hòa trong tiếng lá
rơi xào xạc buối sáng cuối thu. Êm dịu. Một không khí êm dịu khó
có thể tìm đâu trong thành phố kỹ
nghệ này.
Gia đình tôi dọn về thị
trấn phía nam này đã 8 năm rồi. Không bao lâu sau khi ổn định
chỗ ở, ngày nọ nhìn ra đường, một
thầy còn khá trẻ đang đứng ngắm
căn nhà đang treo bảng bán.Vợ tôi
nhìn tôi “Anh đến đâu là
có chùa theo đó.” Thật
vậy, vài tháng sau, căn nhà của người
láng giềng bên kia đường
trở thành ngôi thiền viện. Thiền
viện Bồ Đề như tên chùa được
khắc vào viên đá trước cổng ra
vào. Ngoại trừ những
ngày lễ lớn ghé qua thăm và chúc sức
khỏe các thầy, tôi ít khi đến
chùa và cũng không nhớ hết pháp hiệu
các thầy. Một phần vì
bận rộn với đời sống và phần
khác cũng không cảm thấy cần thiết.
“Trong núi không có Phật” như thiền
tổ Trúc Lâm đã dạy, thì trong
chùa cũng chưa hẳn có Phật. Đến
để tìm gì ? Tôi niệm
Phật và nghĩ đến những lời dạy của
ngài ở bất cứ nơi đâu dù khi ngồi
nhìn những đám mây bay bên kia cửa sổ
phi cơ, những đêm thao thức và ngay cả
những chiều kẹt trên xa lộ.
Công việc làm buộc tôi thường
dậy sớm, như sáng nay. Pha một
tách cà-phê và ngồi nghe tiếng lá
thu rơi, tiểng chổi của các thầy nhẹ
vang. Một âm thanh quen thuộc vọng về.
Kỷ niệm. Vâng, cũng
ngôi chùa nhỏ, cũng quét lá trong
sân chùa như thế. Mới
đó mà đã 40 năm rồi. Bốn mươi năm mà như mới
hôm qua. Cậu bé trong tâm hồn tôi cũng
chẳng lớn hơn chút nào từ những
mùa thu cũ. Ngày đó,
năm giờ sáng, khi phần đông người
trong chùa còn ngủ, cậu bé thức dậy
bắt đầu công việc mỗi ngày của
mình. Cậu bé phải quét lá sớm
để bảy giờ thì đi bộ đến
trường. Sân chùa rộng, nhiều khi vừa
quét xong nhìn lại phía đầu sân
bên kia, lá rơi đầy
như trước, lại phải quét thêm lần
nữa, nếu không thầy trụ trì thức dậy
sẽ trách vì nghĩ là cậu bé
chưa quét.
Mỗi buổi sáng tôi một
mình ôm chổi
Quét lá vàng như
quét nỗi cô đơn
Lá vẫn rụng khi mỗi
mùa thu tới
Như đời
tôi tiếp nối chuyện đau buồn.
Nhiều buổi sáng khi quét lá xong, trời
còn sớm cậu bé ngồi trên bệ
đá trước giảng đường học
bài. Nhìn những chiếc lá đang nhẹ
nhàng rơi xuống, cậu bé nghĩ về
mình và những đứa bé cùng cảnh
ngộ. Số phận của chúng cũng mang nỗi
cô đơn sâu thẳm và mong manh như chiếc
lá đang rơi.
Thế hệ của cậu bé ngày
đó là thế hệ của những chiếc
lá bị cuốn đi trong mùa bão lửa.
Lá rơi trên đường phố Đà Nẵng.
Lá rơi dọc bến xe
đò Hùng Vương. Lá rơi vào những
hố rác hôi thối ở Hòa Cầm.
Lá rơi bên ngoài các căn cứ
lính Mỹ. Mỗi sáng, bên ngoài các
hãng kem, hàng trăm chiếc lá tuổi mười
hai, mười ba sắp hàng chờ nhận kem đi
bán. “Trường học”, “mái ấm
gia đình”, “tình thương cha mẹ”,
“một bữa cơm ngon”, hình như lâu
lắm rồi không ai nhắc với chúng những
chữ gần như xa lạ đó nữa. Cuộc hành trình chúng đi
không có bóng mát. Những bàn
chân nhỏ nhoi trên con đường Việt Nam đầy
hố đạn. Cám ơn Đức Phật
và những lời dạy của ngài. Tình thương, bao dung và tha thứ
như những giọt nước mát rót
vào tâm hồn cháy bỏng hờn căm của
cậu. Nếu không có tiếng chuông
chùa, không có lời kinh khuya ru tuổi thơ
nhiều mất mát, cuộc đời cậu, như
hàng triệu chiếc lá chiến tranh khác
đang lang thang khắp ba miền đất nước sẽ
về đâu ?
Năm năm sau, vào một buổi chiều
mùa thu, cậu bé đã trở
thành một thanh niên 18 tuổi, lạy Phật ra
đi. Hôm đó trời đã vào thu. Lá chưa rơi nhiều như
sáng hôm nay nhưng tiếng xào xạc
hòa trong gió lớn hơn. Hai cây đa
già cùng tấu lên khúc nhạc tiễn
đưa cậu bé. Tạm biệt chiếc đại
hồng chung và những tiếng
ngân dài, tạm biệt chiếc giường gỗ
và bầy rệp đỏ, tạm biệt chiếc
mùng ngăn muỗi nhiều chỗ vá. Không
giọt nước mắt nào nhỏ xuống trong giờ
chia tay người đi kẻ ở,
không, cậu tự tay mở cánh sắt nhỏ
ngăn hai thế giới, và ra đi âm thầm
như ngày mới đến chùa:
Chùa thanh tịnh chẳng dung hồn
lữ thứ
Một chiều thu
tôi lạy Phật ra đi
Bỏ lại tiếng chuông
chùa vang khuya sớm
Cây đa già
đứng lặng khóc chia ly.
Sáng nay ngồi nhớ lại mình và những
đứa bé bất hạnh thời chiến tranh. Tự
hỏi, những chiếc lá vàng trên hè
phố Đà Nẵng, trên bến xe đò Nam
Lộc, trong hố rác Hòa Cầm ngày xưa
đã bay về đâu. Thời gian
âm thầm trôi như giòng sông bất tận.
Bỗng dưng thấy thương mình hơn bao giờ.
Bỗng dưng thèm được về bên
sân chùa cũ ngồi dưới ánh trăng thu để lắng nghe tiếng lá ru
như tiếng mẹ vỗ về. Bỗng dưng
thèm được hát, bài hát của một
thời hoa niên đầy nước mắt. Nhưng
không, tuổi thơ sẽ không bao giờ trở lại
như những chiếc lá chiến tranh ngày
xưa nay đã già, đã rơi tan tác ở
một nơi nào đó trên quê
hương hay đang thì thầm với mùa thu ở
một góc phía nam của thành phố Boston xa
lạ.
Dù bay bao xa, một ngày, chiếc lá cũng
sẽ trở về, để được hôn
lên mảnh đất đầy oan nghiệt nơi giữ
gìn xương thịt của mẹ cha, và cũng
để lần cuối cùng viết nốt những
bài thơ dang dở.
Tôi viết nốt những bài
thơ dang dở
Vá tình người rách nát
thuở hoa niên
Ða sẽ hát bài đồng
dao muôn thuở
Nhạc thu buồn
nước mắt chảy trong đêm.
Trần Trung Đạo
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)