Hai Gánh Quê
Hương
(Tâm bút Trần Trung Ðạo)
Trong cuộc sống đa đoan và nhiều
thăng trầm, trắc trở của tôi, biết bao
nhiêu kỷ niệm, biến cố đã trôi
qua trong đời kể từ ngày tôi bám
vào chiếc xe ba bánh, xa ngôi làng Mã
Châu, xã Xuyên Châu, Quận Duy Xuyên
thân thuộc vào năm 13 tuổi.
Những vui, buồn, hy vọng, tuyệt
vọng đã đến và đi trong đời
sống nhiều đến nỗi tôi không thể
nào nhớ hết. Những
chiều mưa trên một căn gác bỏ hoang ở
gần bến xe Hùng Vương Đà Nẵng.
Những trưa hè vắng lặng dưới
bóng cây đa già ở chùa Viên
Giác, Hội An. Những đêm khuya nằm nghe
bà chị dâu khó tính, nguyền rủa,
đay nghiến ở Sơn Chà. Tất
cả được tôi xem như là Nghiệp.
Tôi làm quen với bất trắc từ
khi còn rất nhỏ. Nhờ thế, tôi
đón nhận những gì mà nhiều người
khác gọi là hố thẳm của tuyệt vọng,
một cách vô tư, không một lời thở
than, oán trách. Hơn ba mươi
năm qua, những vết sẹo của thời niên
thiếu vẫn còn đó nhưng nếu
không ai hỏi đến, không bị động
chạm đến, chính tôi nhiều khi cũng
đã quên đi. Thế
nhưng, tôi sẽ không bao giờ quên
được những tháng ngày đầu
tiên của tôi trên đất Mỹ.
Trong trí nhớ của tôi vẫn còn in
đậm hình ảnh chiếc Boeing của hãng
Northeast bay ngược chiều kim đồng
hồ đưa chúng tôi từ Manila đến phi
trường Chicago
vào một ngày cuối tháng 11 năm 1981. Giọng người nữ tiếp viên
hàng không êm ái cất lên lời tạm
biệt. Tôi không hiểu hết
nhưng đại khái biết rằng cô ta vừa
chào mừng chúng tôi sắp đặt
chân lên đất Mỹ. Tôi tự nhủ,
“quãng đời lưu vong thật sự sắp
bắt đầu”. Bên
ngoài trời đẹp nhưng xa lạ. Quang cảnh ấm áp. Những tia nắng vàng dội vào khung cửa
kính phi trường. Vài cụm mây trắng
bay lang thang trên nền trời xanh nhạt.
Như lời bà hướng dẫn viên
người Phi dặn dò trước khi lên
máy bay, chúng tôi, tay cầm chặt chiếc
túi đựng hồ sơ tỵ nạn có chữ
ICM thật lớn, sắp một hàng dài dọc
theo hành lang phòng đợi để khỏi bị
lạc. Người đầu tiên ra
đón chúng tôi ở phi trường Chicago là một
cô gái Việt trẻ đẹp, có lẽ
còn là sinh viên và đang làm việc
cho cơ quan thiện nguyện. Một
ông Mỹ già đẩy đến cho cô ta một
thùng áo quần và lặng lẽ bỏ
đi. Theo lịch trình đã
được ấn định trước, tại Chicago chúng
tôi sẽ được cấp phát áo ấm
mùa đông trước khi chuyển máy bay về
địa điểm định cư cuối cùng
trong hành trình tỵ nạn. Trạm
cuối của tôi là Boston.
Tôi biết và kính trọng thành phố
Boston văn hóa lịch sử, qua nhiều môn học,
nhưng chưa bao giờ nghĩ có một ngày sẽ
là nơi tôi gửi gấm phần đời
còn lại của mình. Người con gái
đẹp mà tôi không dám hỏi tên,
phát cho mỗi người trong đoàn chúng
tôi một chiếc áo ấm. Tất
cả đều cùng một cỡ như nhau. Chúng tôi ngạc nhiên nhìn chiếc
áo ấm dày cộm rộng thùng thình
hoàn toàn tương phản với bầu trời
nắng chang chang bên ngoài. Hiểu ý, với
giọng Huế nhẹ nhàng, người đẹp dạy
cho chúng tôi, những lưu dân đến từ
vùng nhiệt đới, bài học đầu
tiên về thời tiết nước Mỹ: “Ngó
vậy mà không phải vậy đâu. Trời gạt mấy anh đấy. Ra ngoài không áo ấm vài
phút là chết cóng”. Ngừng một chút, nàng
cười tinh nghịch: “Ai không tin bước
ra thử thì biết”. Nghe cô ta nói vui
vui, tôi cũng định đáp lại bằng
vài lời tán tỉnh nhưng chợt nhớ ra
đây không phải là quán cà-phê
trên đường Duy Tân bóng mát mà
là thân phận hẩm hiu của một người
tỵ nạn chân vừa chạm đất quê
người, nên đành im lặng.
Đúng như lời cô
gái Việt ở Chicago cảnh
cáo, Boston
chào đón tôi bằng những cơn
bão tuyết triền miên suốt mùa
đông dài rét buốt. Đêm giao thừa của ngày
Tết Việt Nam
đầu tiên trên nước Mỹ, không
có bánh chưng xanh, không
có rượu nồng pháo nổ, không một
lời chúc tụng ngoại trừ âm hưởng
của những bông tuyết trắng bị gió
đùa vào cửa sổ. Người
anh lớn tuổi nhất trong nhà đang cặm cụi
sửa soạn một bàn thờ nhỏ trong
phòng khách để cúng ông bà.
Bàn thờ đơn giản, chỉ một lon
hương, hai cây đèn, một nải chuối
và một bình hoa. Tôi và những
người ở cùng nhà ra khỏi phòng,
nghiêm trang đứng sau lưng anh. Anh
khấn vái xong, chúng tôi, những kẻ
không họ hàng, thân thuộc gì với
nhau, cũng lần lượt mỗi người thắp
một cây hương, cúi đầu vái ba
vái. Không biết vái về
đâu và cũng không biết từ phương
Đông xa xôi, tổ tiên ông bà có
nghe được lời cầu nguyện của những
đứa con đang lạc loài trên đất
khách hay không. Không có tiếng
khóc trong đêm giao thừa đầu tiên
nhưng lòng ai cũng ngậm ngùi nặng trĩu.
Cúng xong, chúng tôi không ai muốn
đi ngủ lại. Không nói ra, nhưng
hình như người nào cũng sợ phải
đối diện với nỗi cô đơn, lạc
lõng và thất vọng trong đêm giao thừa.
Chúng tôi ngồi quây quần nhau
chung quanh chiếc bàn dài. Vài đĩa
cánh gà chiên. Vài lon bia.
Một bình trà. Những bầu
tâm sự.
Những câu chuyện vượt
biên. Mẹ
già. Người yêu. Bạn bè. Em gái. Và
như thế, tôi đón cái Tết đầu
tiên với những người xa lạ nhưng
vô cùng cần thiết trong đời sống mới,
những người đã gọi nhau là đồng
hương và tôi cũng được hưởng
thêm một tình cảm mới mà chúng
tôi gọi là tình đồng hương.
Cảm giác lo sợ,
bất an đó, trùm kín lòng tôi trong
đêm giao thừa đầu tiên ngồi nhìn
tuyết rơi trắng xóa ngoài cửa sổ. Tất
cả đều xa lạ. Từ con người đến
cảnh vật mùa đông, không ai và
không có một ngoại cảnh nào có thể
gọi là cảm thông, chia xẻ dùm tôi. Trên
vai tôi, một gánh quê hương và gia
đình nặng trĩu bên kia bờ đại
dương. Gánh quê hương và
tương lai của đời tôi, hòa nhập
vào nhau thành một. Tôi biết mình
đang đứng trước ngọn núi cuộc
đời đầy chông gai thử thách. Nếu
tôi vượt không qua được, đời
tôi sẽ coi như bỏ đi.
Những tâm sự
tôi mang theo trong lòng mỗi ngày một lớn
hơn thêm và trở thành một mối
ám ảnh triền miên, đeo đuổi tôi
trong suốt những năm đầu trên đất
Mỹ. Khi ngồi đăm
chiêu trên bàn viết, bàn học, bận bịu
trong sở làm, lúc lái xe trên xa lộ
và ngay cả khi chập chờn trong giấc ngủ,
tôi vẫn nghĩ về Việt Nam cùng với những
vấn nạn mà quê hương tôi đang chịu
đựng.
Tôi không khoe khoang lòng
yêu nước.
Lòng yêu nước vốn là một tình
cảm tự nhiên, chẳng có gì để gọi
là khoe khoang hay cường điệụ Dải
đất hình chữ S mà Chế Lan Viên
ví như “một
con tàu xẻ sóng”, đã chịu đựng quá nhiều
đau thương bất hạnh trong suốt hàng thế
kỷ chiến tranh. Với tôi, dải đất
hình chữ S kia là hình ảnh của một
giọt nước mắt chảy dài trong đêm
tối, là bóng dáng co ro của mẹ Việt
Nam đang chờ những đứa con đi xa, xa
tít bên kia bờ biển rộng.
Tôi nghe lòng đau nhói khi được
tin quê nhà bị lũ lụt
và xốn xang khi thêm một người bị bắt
giam. Bao nhiêu người đã và đang chết,
trong thiên tai, trong nghèo
đói và trong ngục tù. Đọc
bản tổng kết kinh tế thế giới hàng
năm của Liên Hiệp Quốc mà tủi thẹn
là một người Việt Nam. Viet Nam, Uganda,
Etheopia, New Guinea và nhiều quốc gia Phi Châu
còn sống trong thời kỳ bộ lạc khác,
được sắp ngang hàng nhau về kinh tế. Bốn ngàn năm văn hiến,
hào khí Đông A, truyền thống Diên Hồng
đang ẩn khuất ở nơi đâu
?
Tôi thường gọi đất Mỹ
nầy là đất tạm dung, trạm dừng
chân của tôi và hàng triệu đồng
bào tôi, trên quãng đường dài
lưu lạc. Tôi
đi học vì đó là chọn lựa duy nhất
để có thể tồn tại và vươn
lên trong xã hội Hoa Kỳ. Giống như truyền
thống Quảng Nam chúng tôi ngày trước,
sự chọn lựa giữa đi học và
không đi học quan trọng không khác
gì chọn lựa giữa sự sống và
cái chết. Tôi không kế thừa
được hết truyền thống của tổ
tiên xứ Quảng. Tôi đi học
chỉ đủ để đi làm và tôi
đi làm chỉ để sống, để nuôi
vợ nuôi con. Tôi trả thuế cho nước
Mỹ căn cứ vào những lợi tức mà
tôi thu nhập được.
Đó không phải là một nghĩa vụ
thiêng liêng theo kiểu “Đừng hỏi đất
nước đã làm gì cho bạn, hãy hỏi
bạn đã đóng góp được
gì cho đất nước” (Ask not what your country
can do for you; ask what you can do for your country) của cố TT Kenedy. Nước
Mỹ không phải là “country” của
tôi. Tôi trả thuế nhưng đó
không thể gọi là đóng góp. Đóng góp hàm
ý nghĩa thiêng liêng, tự nguyện trong lúc trả thuế là một
điều luật pháp bắt buộc tôi phải
làm nhằm trang trải cho các khoản chi
dùng công cộng.
Ngày xưa tôi say mê kính mến
Thomas Paine, Thomas Jefferson, John Adams, những người cha
tư tưởng của cách mạng Mỹ. Các
tác phẩm, các diễn văn của họ từng
là niềm thôi thúc của thế hệ trẻ
Việt Nam chúng tôi trên đường mưu
tìm một giải pháp hòa bình, độc
lập, tự do, dân chủ thật sự về cho
dân tộc Việt Nam. Những chiều nằm nghe bụng
đói cào trong cư xá hay giữa bữa
cơm xã hội rẻ tiền ở góc
đường Triệu Đà, chúng tôi vẫn
cùng nhau mơ về một đất nước Việt
Nam tự do, ấm no, dân chủ. Dù
đang đi giữa mùa bão lửa của
quê hương, chúng tôi vẫn cố nuôi
hy vọng sẽ có một Thomas Paine, một Thomas
Jefferson, một John Adams Việt Nam xuất hiện. Nhưng khi đến đây và trở
thành người Mỹ tôi lại cảm thấy
xa cách với họ hơn khi còn ở Việt Nam.
Trong suốt gần mười năm đầu sống
trên đất Mỹ, tôi cảm thấy mình
là người khách lạ tạm dừng
chân, dửng dưng với những biến cố lớn
nhỏ quanh đời sống.
Tôi có cảm tưởng một
ngày không xa, tôi sẽ từ giã nơi
đây mà không một chút gì lưu
luyến. Tôi
vẫn nghĩ một ngày không xa, tôi sẽ
mang khăn gói về lại với rừng núi Quế
Sơn, nơi tôi đã cất lên tiếng
khóc chào đời. Tôi sẽ
sống những ngày còn lại của đời
mình dưới rặng tre già Nghi Hạ, nơi
cha mẹ tôi đã gặp nhau trong một
đêm huyền diệu. Ở
đó, những chén nước vối Quảng Nam
đã được dùng để thay cho
chén rượu tân hôn của đôi trai
gái thời loạn lạc.
Tôi có cảm tưởng một
ngày không xa tôi sẽ ôm đàn về
lại sân trường cũ, nơi tôi
đã từng say sưa đứng hát trong những
chiều Chủ Nhật của một thời tuổi trẻ
xôn xao và nhiệt tình còn nóng bỏng. Ngày xưa, mỗi lần
cất tiếng hát “sống với quê
hương tôi, chết với quê hương
tôi” của nhạc sĩ Bùi Công Thuấn,
là mỗi lần tôi rưng rưng nước mắt.
Đêm nằm nghe tiếng súng xa xa vọng về,
tôi xót thương cho số phận một
dân tộc hiền hòa phải bị chìm
đắm trong chiến tranh, hận thù, tang tóc.
Ngày tôi đưa tay
tuyên thệ làm một người Mỹ vừa
được công dân hóa sau năm năm
thường trú, tôi cảm thấy buồn nhiều
hơn vui, tủi thẹn nhiều hơn tự hào. Một tên Mỹ da vàng không quê
hương, không tổ quốc, ngơ ngơ ngác
ngác giữa quê người, có gì
đáng để mừng vui. Viên thư ký sở nhập tịch hỏi
tôi theo thủ tục, có muốn thay cái
tên cúng cơm của tôi bằng tên Mỹ.
Tôi lắc đầu. Nhiều người
đã chọn đổi tên. Một số
người làm như thế chỉ để dễ
kiếm công ăn việc làm, nhưng cũng một
số khác để chứng tỏ mình biết
hội nhập vào đời sống Mỹ. Việt
Nam, với nhóm người sau, đã đồng
nghĩa với một thời quá vãng.
Với tôi, quá khứ không
những còn sống hiển nhiên trong hiện tại
mà sống mạnh hơn bao giờ hết. Tôi cảm thấy
tên tôi xuất hiện trong mọi trang báo Mỹ
nói về cuộc chiến Việt Nam. Tôi cảm thấy đời tôi có mặt
trong mọi câu chuyện nói về sự
nghèo đói và nỗi bất hạnh Việt
Nam.
Việt Nam
của tôi không phải chỉ là những mảnh
đời vụn vặt mà là cả cuộc
đời, dù tôi chỉ sống ở đó
hơn 20 năm. Vì vậy, khi được hỏi
cần thay đổi gì về tên họ, tôi
nhanh nhẹn trả lời viên thư
ký là cứ để nguyên tên tiếng
Việt Nam
của tôi như thế.
Tự do không bao giờ đủ nghĩa
nếu đó không phải là tự do
trên chính nơi chôn nhau cắt rốn của
mình. Hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn
nếu đó không phải là một niềm
hạnh phúc chung, cùng chia ngọt
xẻ bùi với đồng bào ruột thịt
của mình. Dân tộc
tôi chưa có tự do, đồng bào tôi
chưa có hạnh phúc, thì tự do và hạnh
phúc của cá nhân tôi chỉ là một
thứ tự do hạnh phúc riêng tư và
ích kỷ. Có người sẽ cho
rằng tôi là kẻ đạo đức giả,
cường điệu, khoe khoang. Không, tôi
có thể không làm được hết những
điều tôi mơ ước, có thể tôi
không đủ can đảm theo
đuổi đến cùng những điều
tôi cho là đúng, nhưng tôi yêu đất
nước và thao thức về đất nước
từ tận đáy lòng.
Tôi có cảm tưởng tự do mà
tôi có trên đất nước tạm dung nầy
chỉ là thứ tự do được người
ta bố thí. Ngồi trên thềm tòa nhà
lịch sử Fanueil Hall ở Boston
sau giờ tuyên thệ tôi làm bốn câu
thơ lục bát để kỷ niệm Ngày
Vô Quốc Tịch:
Mặt mày hớn hở vui
tươi
Sao lòng nghe thẹn làm người
tự do
Của nầy
là của trời cho
Của ta
đánh mất không lo đi tìm.
Boston, thành phố
nơi tôi ở, chiếc nôi của cách mạng
Hoa Kỳ, được dân Hoa Kỳ xem gần
như là thánh địa. Nơi đây, từ
bốn trăm năm trước đã có những
di dân đầu tiên trên chiếc tàu
Mayflower giong buồm tiến vào vịnh Provincetown, Cape
Cod. Nơi đây, mỗi con đường, mỗi
khu phố, mỗi căn nhà gạch ngói rêu
phong là một di tích lịch sử. Tên tuổi
và địa danh của những quận như
Concord, Lexington, Bunker Hill đã đi vào lịch sử
vẻ vang của cuộc chiến tranh giành độc
lập từ tay đế quốc Anh.
Người Mỹ
không có một lịch sử dài cả mấy
nghìn năm như Việt Nam và nhiều quốc
gia khác nên họ rất trân quý những
gì họ có. Cách nhà tôi vài con
đường có một căn nhà gỗ rất
sơ sài, cũ kỹ được xây từ
lâu lắm. Căn nhà không có gì đặc
biệt. Nếu ở Việt Nam, chắc người ta
đã xô sập xuống làm củi chụm từ
lâu nhưng ở Mỹ đó là tài sản
quý. Căn nhà được chính phủ bỏ
tiền bảo trì và săn sóc chu
đáo. Mỗi năm hàng triệu người Mỹ
từ khắp nơi đổ về Boston chỉ để
được đi dọc theo con đường
vào ngày 18 tháng 4 năm 1775, ông Paul Revere
đã từng cỡi ngựa đi qua từ Charlestown
Neck đến Concord, Lincoln, Lexington để báo động
“Quân Anh đang đến. Quân Anh đang
đến !” hay được
đi dọc theo Freedom Trail, nối liền những di
tích lịch sử của thành phố Boston
cách mạng. Với tôi, những con đường
đó cũng chẳng khác gì hàng
trăm con đường chật chội khác ở
Boston. Những con đường đó không thể
nào so sánh được với con đường
Duy Tân có hai hàng me xanh tình tự ở
Sài Gòn hay đường Bạch Đằng
đầy hoa phượng đỏ bên bờ
sông Hàn Đà Nẵng.
Boston có Harvard Square,
nổi tiếng với đại học Harvard và các
quán cà-phê đông đúc. Trên
đoạn đường chưa đến một
cây số vuông đã có đến hai
mươi tiệm sách, cả trăm nhà
hàng và hàng chục tiệm cà-phê.
Khách đêm nào cũng đông nghẹt.
Đa số là sinh viên Harvard. Những thanh
niên tóc tai bù xù kia biết đâu một
ngày sẽ là những kiến trúc sư
chính của nền văn minh nước Mỹ, những
tổng thống triển vọng của hiệp chủng
quốc Hoa Kỳ, những nhà khoa học, nhà
văn, nhà thơ lớn của nhân loại sau nầy.
Tôi cũng ghé một đôi lần cho biết
nhưng không chịu được cái không
khí ồn ào ở đó. Với tôi,
cà-phê ở Boston không thể nào ngon bằng
cà-phê Thạch Thảo một thời ở
Đà Nẵng và dĩ nhiên kém xa so với
cà-phê của bà Vú ở hẻm 220
Trương Minh Giảng, Sài Gòn mà ngày
xưa tôi thường thiếu nợ.
Như nhiều người
Việt Nam khác, tôi lớn lên với một
tâm bịnh mang theo từ cuộc chiến tranh Việt
Nam tương tàn đẫm máu. Quá khứ
đã trở thành một nỗi ám ảnh
triền miên. Ngay cả căn nhà ở Dorchester,
dù tôi đã mua với giá đắt,
dường như cũng không phải là nhà
của tôi. Nhiều lúc lái xe về ngang qua
nhà mình mà vẫn quên dừng lại.
Căn nhà thật sự và phần đời
thân yêu nhất của tôi đã cháy
trong một đêm kinh hoàng ở làng Mã
Châu 30 năm trước. Hình ảnh một cậu
bé 13 tuổi đứng trước ngọn lửa rực
trời đang đốt cháy một phần đời
đẹp nhất của cậu, đã trở
thành một ám ảnh không quên được
trong ký ức tôi.
Năm 1999, vợ chồng
tôi quyết định dời sang một thành phố
khác và có thể tiểu bang khác nếu
công ăn việc làm thuận tiện hơn.
Tôi được một hãng điện
toán ở miền Tây Nam phỏng vấn bằng
điện thoại. Kết quả rất khả quan. Họ
hứa hẹn rất nhiều, từ việc giúp
chúng tôi di chuyển cho đến việc tạm
cư trong thời gian đầu. Lương bổng bằng
với lương tôi đang được trả tại
Boston nhưng so sánh vật giá và giá
nhà cửa giữa hai vùng, đó là một
mức tăng cao. Tôi mãi chần chờ. Quyết
định rời khỏi tiểu bang Massachusetts, về mọi
phương diện, vật chất cũng như tinh thần,
là một quyết định lớn của gia
đình tôi.
Dù sao tôi cũng
đã bán căn nhà tôi đã sở
hữu 12 năm cho một người quen và thuê
một căn phòng ở phía Nam tiểu bang tạm
sống trong khi chọn một hướng đi mới
cho gia đình tôi.
Đêm cuối trong
căn nhà cũ, tôi không thể nào ngủ
được. Tôi biết rằng ngày mai gia
đình tôi sẽ dời ra khỏi căn nhà
nầy, nơi chúng tôi đã sống suốt
12 năm đầy ắp kỷ niệm. Tôi biết rằng
ngày mai tôi sẽ xa xóm Dorchester nhỏ hẹp
và chật chội nầy, nơi tôi đã sống
suốt 17 năm dài đầy khó khăn, vui buồn,
thử thách.
Đêm cuối trong
căn nhà cũ, lần đầu tiên tôi
khám phá ra rằng nước Mỹ với
tôi không còn là đất tạm dung.
Cái cảm giác đêm cuối cùng,
cách đây gần 20 năm khi tôi xa Sài
Gòn, đã trở lại với tôi lần nữa.
Căn nhà tại số 6 Thornley Street là nhà của
tôi, Dorchester là thôn xóm của tôi
và Boston là thành phố của tôi. Nước
Mỹ đã cho tôi nhiều hơn tôi trả
lại cho nước Mỹ.
Ân huệ mà
đất nước nầy đã cho tôi
không phải chỉ là tự do nhưng còn
là cơ hội và hy vọng, những điều
tôi đã không tìm thấy trên quê
hương ruột thịt của tôi. Hy vọng
không phải là giấc mơ huyền ảo
mà là một điều có thực và
là chất sống cần thiết để nuôi
dưỡng một con người phải không ngừng
tranh đấu để sống còn như tôi.
Nước Mỹ gắn bó với cuộc đời
tôi nhiều hơn tôi gắn bó với nước
Mỹ.
Đêm cuối trong
căn nhà cũ, lần đầu tiên, tôi nghĩ
về đất nước đã cưu mang tôi
trong suốt gần 20 năm nhiều thay đổi của
đời tôi với một tấm lòng biết
ơn và trân trọng chân thành.
Đêm cuối trong
căn nhà cũ, tôi nằm nhớ lại bàn
tay người lính hải quân Mỹ của chiến
hạm USS White Plains vói xuống để nhấc
thân hình ốm o, đói khát của
tôi lên khỏi chiếc cầu dây đong
đưa bên thành tàu. Đêm đó
là đêm 13 tháng 6 năm 1981. Chiếc ghe chiều
dài vỏn vẹn mười thước rưỡi
và chiều ngang chỉ một thước tư, sửa
lại từ một chiếc ghe bầu nhỏ, đưa
chúng tôi trong suốt cuộc hải hành sinh tử
bắt đầu từ ấp Hải Sơn, ngoài
Bà Rịa. Sau 39 giờ lênh đênh bì
bõm trên biển Đông, ghe chúng tôi chết
máy. Một người nào đó đã
sơ ý đổ một thùng nước
vào máy thay vì đổ một thùng dầu.
Trời mưa lớn. Biển bắt đầu động
mạnh. Một em bé bịnh nặng và đang hấp
hối trong vòng tay mẹ. Em bé đã chết
khi vừa lên tàu Mỹ. Nhiều người
khóc thút thít. Tiếng niệm Phật
hòa lẫn tiếng cầu kinh Chúa yếu ớt
vọng lên từ lòng ghe. Chiếc neo nhỏ bằng
một nửa chiếc niềng xe đạp trẻ em,
tưởng như có thể nổi lên trên mặt
nước, không làm ghe giữ được
thăng bằng. Chiếc ghe lao chao trên sóng, mong
manh như những chiếc ghe giấy tôi thường
xếp chơi bên những vũng nước mưa hồi
nhỏ, tưởng như có thể lật sấp bất
cứ lúc nào. Tiếng người ói mửa,
nôn ọe, khóc than. Những người còn sức
khỏe đang lui cui xả nước từ trong
máy. Tôi không giúp gì được.
Ngồi trên sàn ghe nhìn về phía
chân trời, tôi tự hỏi quê hương
bây giờ đang ở hướng nào. Trên nền
trời xám đen vài con chim lạc đàn
đang cất tiếng kêu thê thảm. Số phận
chúng cũng giống như tôi, trời đất
rộng muôn phương nhưng không còn chỗ
quay về.
Vài giờ sau,
tôi nghe tiếng máy nổ và tiếng những
người đàn ông trong phòng máy vui mừng
la lớn. Ghe chúng tôi lại tiếp tục
lên đường. Tôi mệt quá nên thiếp
đi.
Một người bạn
lay tôi dậy. Ba giờ sáng. Những ngọn
đèn pha cực sáng rọi vào mắt
tôi. Tôi có cảm giác ghe vừa cặp
vào một hải cảng. Nhưng không, bạn
tôi nói có một chiếc tàu, có vẻ
là tàu Mỹ, dừng lại chờ chúng
tôi. Những người lính hải quân Mỹ
sắp hàng trên boong tàu. Họ vói tay ẵm
từng em bé, dìu lấy chúng tôi trong
vòng tay trong xót thương và chan chứa
tình người. Tự do mà chúng tôi
có, đã đổi bằng một giá đắt
như thế đó.
Đêm cuối
cùng trong căn nhà cũ, tôi mới sực nhớ
ra rằng, tôi chưa bao giờ nói một tiếng
cảm ơn những thủy thủ đã cứu vớt
tôi trong đêm hãi hùng trên biển
Đông năm ấy. Lẽ ra, ít nhất mỗi
năm một lần, tôi nên gởi một tấm
thiệp Giáng Sinh kèm theo lời cảm ơn về
địa chỉ của chiến hạm USS White Plains ở
bộ Hải Quân Mỹ. Tôi tệ đến nỗi
một việc làm đơn giản như thế
mà 20 năm qua tôi vẫn chưa làm được.
Đêm cuối
cùng trong căn nhà cũ, tôi nhớ đến
bà già Mỹ ở phi trường Chicago. Bà
cụ cho tôi và vài người bạn tỵ
nạn đang đứng sắp hàng chờ máy
bay, mỗi người một đô-la. Đồng bạc
màu xanh là vốn liếng đầu tiên của
tôi trên đất nước nầy. Chúng
tôi ấp úng mãi mới nói được
một tiếng “thank you” vụng về. Một
người bạn đi cùng chuyến dùng đồng
đô-la đó để mua gói thuốc
lá. Chúng tôi chia nhau hút. Bà cụ
nhìn chúng tôi có vẻ không vui.
Tôi nhìn theo bóng bà cụ khuất dưới
hành lang phi trường và cúi nhìn tờ
giấy bạc như không thể nào tin trên
đời nầy có một người rộng
lòng như thế. Đối với cụ, vài
đô-la có lẽ không quá lớn và
có lẽ cụ đã cho những kẻ khó
khăn khác nhiều lần hơn thế. Nhưng với
những người tỵ nạn hai bàn tay trắng,
đi sang Mỹ bằng đôi dép như tôi,
đồng bạc đầu tiên có ý nghĩa
vô cùng. Tôi biết ơn cụ. Từ nhiều
năm nay, tôi không giàu có để
có thể làm những việc từ thiện lớn,
nhưng mỗi khi bước vào tiệm
cà-phê, tiệm ăn có hộp lạc
quyên của các cơ sở từ thiện, tôi
thường bỏ vào đó một đô-la
như một cách riêng để cảm ơn
và tưởng nhớ đến cụ. Tôi kể lại
câu chuyện nầy với các con tôi và dặn
chúng, mỗi khi có dịp, cũng nên làm
như thế.
Đêm cuối
cùng trong căn nhà cũ tôi nằm ôn lại
một khoảng đời 20 năm, từ hai bàn tay
trắng đến khi có được một gia
đình êm ấm. Hẳn nhiên nỗ lực của
chính tôi không thể nào thành đạt
nếu không có những cơ hội đã
được mở ra từ xã hội Mỹ. Nước
Mỹ là vùng đất của cơ hội
và mọi người đều có quyền
có một American Dream (Giấc Mơ Người Mỹ).
Phần lớn bạn
bè cùng lớp tuổi tôi đều đi học
và hầu hết đã ra trường. Học ở
Mỹ không khó khăn như ở Việt Nam. Học
ở Mỹ không cần lý lịch, không cần
phải đút lót. Học ở Mỹ cũng
không cần phải vào Harvard, MIT mới gọi
là vào đại học. Ông bà chúng
ta thường nói “có chí thì
nên”. Chí ở đây không phải dời
sông lấp biển, trị quốc an dân mà
là sự quyết tâm, một quyết tâm rất
nhỏ. Điều đó không có nghĩa
người Mỹ nào cũng có bằng đại
học. Rất đông người Mỹ, dù da
đen hay da trắng vẫn phải còng lưng đi
làm với đồng lương tối thiểu bởi
vì họ khác với chúng ta một điều:
họ không có quyết tâm. Họ sinh ra giữa
một xã hội quá dư thừa phương tiện
nên không cần phải chọn lựa. Vì
không chọn lựa nên nhiều trong số họ
không có gì cả.
Đêm cuối
cùng trong căn nhà cũ, tôi nghĩ về cả
con đường Dorchester mà tôi mỗi ngày
mấy bận đi qua. Giống như đường
Santa Clara ở San Jose, Bolsa ở Nam California, Colonial ở
Orlando, đường Dorchester là xương sống
của xóm Dorchester chúng tôi. Bao nhiêu
người đã ăn nên làm ra cũng nhờ
vào con đường nầy, mặc dù không
phải ai cũng biết ơn nó, không phải ai
cũng nhớ tới nguồn gốc của chính
mình, không phải ai cũng nhớ đến những
ngày đầu tiên đi sắp hàng mua từng
vỉ cánh gà, từng gói mì ăn liền
bằng Food Stamps trong cái rét căm căm của
miền Đông Bắc.
Trên con đường
đó tôi đã gặp và làm quen với
một bác HO già. Bác thường hay đứng
trước cổng nhà tôi để đón
xe đi làm tiền mặt. Chủ đưa bác đi
đâu thì bác đi đó. Một hai tuần
đi làm cho hãng giấy, dăm ba tuần đi
làm hãng nhựa. Bác vất vả nhưng
tôi chưa hề nghe bác than van. Năm nay, bác
đã trên 60 tuổi. Mái tóc đã bạc
phơ và bao nhiêu vết nhăn đã hằn
trên khuôn mặt già nua, kết quả của
những năm dài lo âu và tù tội.
Tôi chợt nhớ bài thơ Người Lính
Già ở San Jose tôi viết cách đây mấy
năm khi chương trình HO đang trong cao điểm.
Có lần tôi hỏi bác mơ ước
gì nhất bây giờ, bác trả lời rất
gọn: “Về nhà”, nhưng rồi
bác lại nói: “Dĩ nhiên khi đất
nước tự do”. Tôi tin rằng đại
đa số người Việt đều nghĩ và
mong muốn như bác. Tôi cũng tin rằng
chúng ta dù có hàng trăm điều
khác nhau, mâu thuẫn nhau, không đồng
ý với nhau, thậm chí còn cằn cựa lẫn
nhau nhưng trong tận đáy lòng của mỗi
người Việt Nam tỵ nạn cũng đã
chia xẻ một mẫu số chung quan trọng
đó.
Khác với nhiều
người khác, bác không thích nói về
chuyện riêng đời mình. Khi hỏi bác về
chức vụ, bác cười: “Tôi cũng
như người lính già trong thơ anh
thôi”.
Trong diễn văn nổi
tiếng đọc trước quốc hội Hoa Kỳ,
danh tướng Douglas McArthur đã kết luận bằng
một câu danh ngôn: “Người lính
không bao giờ chết họ chỉ tan dần đi
mà thôi”. Người lính già ở Boston
đang tan dần vào lịch sử Việt Nam trong những
cách khác nhau như thế đó. Năm,
mười năm sau, một trăm năm sau, hai trăm
năm sau, các nhà sử học Việt Nam biết
đâu lại chẳng đến con đường
Dorchester đầy bụi bặm để tìm lại
dấu vết của những người lính
già VNCH đã tan đi như thế nào
trên đất khách.
Trên con đường
đó mỗi buổi sáng tôi đã gặp
hàng trăm em bé Việt Nam sắp hàng ở
góc đường chờ xe bus đưa đến
trường. Những chiếc xe bus màu vàng nối
đuôi nhau đưa các em đến tương
lai huy hoàng của nước Mỹ. Nói như cựu
tổng thống Bill Clinton, các em là chiếc cầu
của tương lai hiệp chủng quốc Hoa Kỳ.
Các em may mắn quá. May mắn lớn nhất
không phải chỉ vì các em được
làm công dân của một cường quốc
nhưng quan trọng hơn, các em không phải sống
trong những ngày cháo rau khoai sắn như
hàng triệu đứa trẻ cùng thế hệ
các em bên kia bờ trái đất. Các em
sẽ không bao giờ hiểu thế nào về những
cụm từ “kinh tế mới”, “trại cải tạo”,
“kế hoạch nhỏ”, “trồng cây, trồng
người”. Các em sẽ lớn tự nhiên
như cỏ dại, hoa rừng, vươn lên trong cuộc
đời một cách hiên ngang, không sợ
hãi. Các em đâu biết rằng giờ nầy,
trong cơn mưa nầy, giữa mùa đông
rét mướt nầy, ở An Giang, Mộc Hóa, Cần
Thơ, Rạch Giá, hàng ngàn đứa
bé như các em không có một chiếc quần
đùi để mặc. Các em sẽ không bao
giờ thấy hình ảnh một bà mẹ dang
đôi tay ốm yếu che ấm cho bốn đứa
con không quần áo trong một chòi tranh ngập
nước ở miền Tây. Các em sẽ
không bao giờ thấy hình ảnh những
bà mẹ sắp hàng chờ bán máu để
kiếm tiền mua sữa nuôi con ở các
ngân hàng máu Sài Gòn, Đà Nẵng.
Các em sẽ cố gắng
học để trở nên những Eugene Trịnh, những David Ho, những thiên
tài gốc Á Châu đã làm rạng
danh nước Mỹ. Tôi chỉ muốn nói với
các em một điều mà cách đây
không lâu, một nữ học sinh đã
nói trong một hội nghị về nhân quyền
ở Châu Âu: “Em không bao giờ quên
rằng em là người Việt Nam”. Chừng
đó đủ rồi, và chừng đó cũng
can đảm lắm rồi. Biết bao nhiêu người
không nói lên được ngay cả những
lời đơn giản đó.
Ngày tổ tiên
chúng ta vượt sông Dương Tử cho đến
bây giờ đã hơn bốn ngàn năm rồi.
Em có biết rằng thân hình nhỏ nhoi,
mái tóc đen, chiếc mũi tẹt, màu da
vàng mà em đang có là sự tích lũy
của bao nhiêu máu xương, mồ hôi,
nước mắt trong suốt bốn ngàn năm di
truyền của giòng giống Lạc Long. Thế hệ
của tôi, của cha mẹ các em, và nhiều
trong số các em, đã không chỉ vượt
qua sông mà còn vượt qua cả một
Thái Bình Dương bao la sóng gió để
tìm đất sống. Nhưng chúng ta cũng sẽ
trở về với sông Dương Tử, về với
quê hương Việt Nam thân yêu các em ạ.
Đất nước ta dù còn đang bị che
khuất bởi đám mây đen nhưng chắc
chắn sẽ không bao giờ đen như thế
mãi.
Chúng ta hãy
cùng hy vọng một ngày không xa những giòng
sông quê hương sẽ không còn bị
những cặn bã rẽ chia, hận thù làm
vẩn đục. Các thế hệ trẻ Việt
Nam như các em sẽ được lớn lên
trong tự do, no ấm, biết yêu thương nhau
và che chở cho nhau. Truyền thống của dân
tộc Việt Nam là “nhiễu điều phủ lấy
giá gương”, là “lá lành
đùm lá rách”, là “một giọt
máu đào hơn ao nước lã” chứ không phải
độc tài hay thù hận.
Trên con đường
Dorchester, tôi đã gặp những quán ăn
thanh lịch, những tiệm quán dễ thương,
những cơ sở thương mại tiện nghi
và đa dụng. Nhưng quan trọng nhất Dorchester
vẫn là nơi gặp gỡ của những người
quen thân đầy ắp chân tình. Buổi
sáng đi ra đường là nghe tiếng
nói Việt Nam, nghe tiếng cười Việt Nam, tiếng
chào hỏi Việt Nam vang lên ríu rít. Nụ
cười đâu mất tiền mua nhưng tặng
nhau nụ cười là món quà tinh thần
quý giá nhất, làm ấm lòng nhau trong những
mùa đông nơi đất khách như thế
nầy. Trong những chiếc áo còn dính
đầy sơn, những chiếc quần còn
đóng bụi, các chị các anh đã
quây quần, quấn quít lấy nhau. Cần
gì phải biết tên, biết họ. Trên thế
giới nầy người ta có thể giả mạo
nhiều thứ, tiền bạc, máy móc, dung mạo
nhưng tôi tin không ai có thể giả mạo
được tiếng cười và tiếng
khóc Việt Nam. Cái đẹp và chiều
sâu của thành phố Boston, của con đường
Dorchester không thể hiện ở chỗ nguy nga,
tráng lệ, sang trọng nhưng là ở những
tấm lòng của mỗi người Việt Nam
đang định cư trên thành phố nhỏ nầy.
Nhà văn Trần
Hoài Thư, một trong những nhà văn nổi
tiếng trong sinh hoạt văn học Việt Nam trước
và sau 1975 cũng đã yêu mến một
cách say mê con đường Dorchester như
chính tôi đã và đang yêu mến.
Anh chị Trần Hoài Thư nhiều lần
đã ghé đến đây, đã
yêu và đã viết về con đường
mà chúng tôi đang sống: “Mãi
đến bây giờ, tôi vẫn chưa làm
xong bài thơ nói về một thành phố
đã cho tôi những cơn say rất ngọt
và những đêm thức trắng trong mỗi lần
tôi ghé lại. Bởi tôi đã bất lực
trong việc diễn tả nỗi kỳ diệu này.
Những bạn hữu đã quen rất lâu hay những
người mới gặp một lần. Những tấm
lòng tri âm và tri kỷ, v.v…Không phải
ở Boston có MIT hay Harvard. Chúng dành cho người
bản xứ, từng một thời là nơi
dành riêng cho giai cấp giàu có và
địa vị của Mỹ. Không phải Boston
có thư viện rất nổi tiếng nằm
bên bờ Đại Tây Dương, với lối
kiến trúc rất tân kỳ. Cũng không phải
Boston có một mùa thu tuyệt vời ở những
cánh rừng ngoại ô. Cũng không phải
Boston có một truyền thống văn hóa rất
đặc thù từ những người tiền
phong theo chiếc tàu Mayflower. Đó là chuyện
của người bản xứ. Còn đối với
người Việt xa xứ này, nó cũng vẫn
như mọi thành phố khác. Con đường
Dorchester qua những tiệm ăn, tạp hóa Việt
Nam. Và một khu Việt. Và những gương
mặt da vàng. Và những lời trao đổi bằng
tiếng mẹ đẻ vang trên bãi đậu
xe. Đời sống vẫn bận rộn. Cõi
lòng vẫn quay quắt. Nhớ nhung vẫn bão
bùng. Bạn hữu mấy thằng trôi thất
tán. Mấy thằng đợi một chuyến
đò ngang…Cái mẫu số chung ấy
là mẫu số của bất cứ người tị
nạn nào trong chúng ta…Cám ơn Boston với
những con tim kỳ diệụ Nếu không có
những con tim này, tôi nghĩ, chắc chắn sẽ
không có Trần Trung Đạo”.
Đêm cuối trong
căn nhà cũ, tôi biết rằng mình
không chỉ gánh trên vai một gánh
quê hương.
Trần Trung Đạo
(Bai Chuyen)