NHÀ HẠNH PHÚC
(Tác
Giả: Huy Phương)
Ðọc "Ðèn cù" của Trần
Ðĩnh tôi mới hiểu ra lịch sử của cái gọi
là "Nhà hạnh phúc", một gian nhà tranh nhỏ
được cất ra dành cho những người trong
cơ quan Cộng Sản để tiếp vợ hay chồng
đến thăm viếng ngủ qua đêm, một sáng kiến
của ông Trường Chinh.
Lúc bấy giờ ở "an toàn
khu" Việt Bắc, ông Dương Ðức Hiền, tổng
thư ký đảng Dân Chủ (1), đi thăm vợ ở
Hội Phụ Nữ của đảng, cả hai phải
đem nhau ra bìa rừng. Một ông lão trong bản ngang qua,
trông thấy, than vãn là thương chúng nó phải
"đè nhau ở lưng đồi thế kia", mà ông
tổng thư ký đảng lại còn ngóc đầu lên
"chào cụ" cho đủ bài bản dân vận,
"đi thưa về trình".
Câu chuyện không ai ngờ là mãi 35
năm sau, "Nhà hạnh phúc" lại được cất
lên trong trại "cải tạo", lần này không biết
sáng kiến của ai, để cho tù cải tạo ngủ
với vợ ra thăm. Những người trong nhà tù trên
bảy năm, may ra mới thấy mặt mũi cái
"motel dã chiến" này, thời gian đã có những
phái đoàn báo chí ngoại quốc đến thăm trại
tù, còn từ năm 1980 trở về trước, đang
còn hận thù sâu sắc, Bộ Nội Vụ (sau này đổi
tên là Bộ Công An) chẳng có thời giờ nghĩ đến
chuyện này, những chuyến thăm viếng cho phép vợ
chồng gặp gỡ chớp nhoáng, có sự giám sát của
cán bộ và chưa có chuyện cho vợ thăm tù
được ở lại ngủ qua đêm với chồng.
Câu chuyện xây dựng "Nhà hạnh
phúc" ngay trong trại tù để cho tù "cải tạo"
ngủ với vợ, xem ra như là một chuyện nhắm
mục đích tuyên truyền với bá tánh rằng đảng
ta hết sức nhân đạo khoan hồng. Mãi đến
năm 1981 khi chúng tôi được chuyển trại về
Nam, một vài trại tù thuộc khu Z30D và Z30C (Hàm Tân) mới
bắt đầu lục đục bắt tù kéo tranh, nứa,
gỗ .. về cưa đục, khẩn trương xây dựng
"Nhà hạnh phúc" cho vợ ra thăm tù được
ngủ lại đêm với chồng.
Nhưng không phải tù nhân nào có vợ
ra thăm cũng đều được trại chiếu
cố khoan hồng nhân đạo, nếu như vậy phải
xây hàng nghìn căn nhà, hay một trại có những dãy
giường để người ta có thể làm tình tập
thể.
Tù "cải tạo" học tập
tốt, lao động tốt, được bầu bán là
cải tạo tiên tiến may ra mới được chiếu
cố cho thêm một phiếu quà, tức là được
phép ăn thêm quà nhà, còn như được ngủ với
vợ qua đêm phải là loại tù "xuất sắc"
được phê chuẩn từ ban chỉ huy trại, phải
là loại "văn hóa, thi đua" mẫn cán, hay ăn
ở được lòng cai tù.
May ra 1,000 anh tù "cải tạo"
mới có một anh được hưởng cái "hạnh
phúc" đêm thăm nuôi ngủ "ngoài chuồng" với
vợ, tức là không phải vào ngủ trong những
căn nhà tù có điểm danh và được canh gác cẩn
mật bởi vệ binh.
"Nhà hạnh phúc" là ngôi nhà một
gian, làm bằng toàn tre nứa, may ra chỉ đủ kê một
cái giường nhỏ, phần còn lại dư chỗ cho
một cái bàn, một cái ghế. Không nghe nói gian nhà có bếp
hay có chỗ để một cái lu nước với một
cái gáo hay không, phần này tôi nghĩ là tù "hạnh
phúc" có thể "khắc phục" được.
Ngôi nhà nhỏ được xây cất gần bộ chỉ
huy trại nhưng nằm ngoài phạm vi trại tù có lính
canh. Nhà lợp mái, vách trát bùn xong rồi, nhưng tù cũng
chưa nghe thông báo gì về tiêu chuẩn ai được
ngủ, ai không, để tù có thi đua, ráng sức, may ra
ngàn năm một thuở, vượt qua số phận của
anh em để ngủ với vợ nhà một đêm.
Sau đó, thỉnh thoảng một
vài tuần, lại nghe một anh đội trưởng
hay thi đua có vợ ra thăm, được phép cắp
chăn chiếu lên ngủ ở nhà hạnh phúc. Sáng hôm sau,
anh tù được đặc ân ấy ở nhà một
ngày bồi dưỡng lại sức lực, bẽn lẽn
nhìn anh em, còn bà vợ có mở cửa ra về lúc gặp
đoàn tù xếp hàng đi làm, ăn nói xỏ xiên, thì che nón
cúi gầm mặt, đi thẳng. Mặt khác, đối với
những người có chồng đi "cải tạo"
cùng hoàn cảnh, sẽ nhìn người đàn bà vừa ra
khỏi ngôi nhà kia với những ánh mắt như thế
nào. Cũng như những người tù chung trại nhìn
chồng bà, tôi không nghĩ là họ có lòng ganh tỵ hay thèm
khát địa vị của những người đã ngủ
qua đêm trong ngôi "Nhà hạnh phúc" ấy.
Tuy vậy, không phải không có những
người chạy chọt, lo lót để được
đặc ân ngủ qua đêm với vợ trong trại tù
bằng nhiều cách, như đem hết quà cáp gia đình
gửi, lên nhà bếp cán bộ trại, hay lót tay quản
giáo. Ranh giới giữa "học tập tốt, lao
động tốt, an tâm tin tưởng vào đường
lối khoan hồng của cách mạng" và những
người "nín thở qua sông" khá mong manh, khó ai mà cân
đo được.
Riêng người đàn bà vợ tù,
"chẳng may" thụ thai sau cái đêm trùng phùng ấy,
biết ăn nói, giải thích ra sao với gia đình, lối
xóm nên bộ chỉ huy trại tù đã chu đáo cấp cho
một cái giấy chứng nhận ngày tháng, bà này có
được ngủ với chồng qua sự khoan hồng,
nhân đạo của đảng và chính phủ, có đóng
con dấu đỏ và chắc chắn là có mấy chữ
độc lập tự do, hạnh phúc kèm theo. Ðó là nói về
lý, nhưng về tình, làm sao khỏi miệng tiếng ở
đời, khi người đàn bà có chồng đi "cải
tạo" chưa thấy về mà bụng thì mỗi ngày
mỗi lớn. Một đêm hạnh phúc, nhưng có những
đến "chín tháng mười ngày" xót xa.
Phần ông chồng, được
"đặc ân" ngủ với vợ, dù chỉ một
đêm, trong khi bạn bè, chiến hữu mình nằm san sát
nhau trên sạp tre cách đó không xa, hẳn cái "hạnh
phúc" này cũng không trọn vẹn. Vả lại,
được hưởng đặc ân này, người
tù phải có "công trạng" ra sao, hay phải lo lót,
quà cáp tới mức nào để đưa vào danh sách
được ngủ trong ngôi nhà mang tên "hạnh
phúc".
Và đứa con, được thụ
thai trong cái nhà tù xa xôi giữa núi rừng ấy, trong
đêm, giữa tiếng kẻng đổi phiên của cai
tù, lớn lên sẽ nghĩ sao về sự ra đời của
mình?
Một cựu sĩ quan VNCH, vốn
là con trai độc nhất của gia đình, khi anh lớn
lên, người mẹ thường trông chờ con lấy
vợ để sinh cho bà một đứa cháu nối dõi,
nhưng chiến tranh đã đưa anh đi xa, không có
cơ hội lập gia đình. Ðầu năm định mệnh
1975, nghe lời mẹ, anh lấy vợ. Lấy vợ
chưa được bao lâu thì quân đội tan hàng, anh
khăn gói đi tù. Cuộc đời tù "cải tạo"
dưới chế độ Cộng Sản không hy vọng
và không biết được thuở nào ra, nhất là
đối với một sĩ quan tác chiến có "nợ
máu" như anh.
Qua bảy năm ở trong tù,
thương nhớ vợ thì ít, mà xót xa nghĩ đến
mẹ già đau yếu, mỏi mắt chờ con thì nhiều.
Khi biết được có "chế độ" ngủ
qua đêm tại "Nhà hạnh phúc", anh đã tìm cách
liên lạc với gia đình, để có phương tiện
đút lót hầu có chút cơ may mang về cho mẹ một
đứa cháu, thì dù phải chết trong tù, anh cũng yên
tâm. Ðến ngày hẹn gặp vợ, anh cũng mong đợi
từng ngày và hy vọng làm tròn bổn phận của một
đứa con chưa tròn đạo hiếu, và bỏ qua tất
cả những lời dị nghị, xì xầm của bạn
bè trong nhà tù.
Lâu ngày vợ chồng gặp nhau,
sau một vài giờ mừng rỡ, tưởng chừng
như câu chuyện không bao giờ dứt. Khi tiếng kẻng
của trại nhắc nhở giờ ngủ, anh cũng
háo hức nghĩ đến chuyện ái ân. Họ hôn nhau những
nụ hôn vụng về, và anh lần lượt gỡ bỏ
bộ y phục mà anh còn nhớ rõ bảy năm về
trước, được người vợ mang theo.
Trên vạt giường tre, anh đau xót khi thấy thân thể
vợ qua nhiều năm nghèo đói, tuyệt vọng,
thương nhớ. Hai cánh tay chị khẳng khiu,
xương vai nhô cao. Hai bầu vú đầy đặn
năm xưa không còn nữa, hai núm vú như muốn lặn
sâu vào lồng ngực. Cái bụng thiếu ăn sát xuống
giường và hai đầu xương hông gầy guộc
nhô cao. Anh yên lặng ôm vợ vào lòng và mặc cho hai hàng
nước mắt tuôn chảy, chị cũng khóc theo, cả
hai đều thương xót cho số phận của nhau.
Mười bảy năm tù, khi anh
trở lại nhà thì mẹ anh qua đời, chưa có
được một lần gặp mặt con trai và đứa
cháu mà bà hằng mong đợi. Khi trở về thì anh chị
đã quá già, tương lai vô định, họ không nghĩ
đến chuyện có một đứa con.
Những ngôi "Nhà hạnh phúc"
lập ra cho các bộ đội "cụ Hồ", cho
những cơ quan xa thành phố ngày trước của Cộng
Sản, may ra còn có thể hiểu, nhưng những ngôi
"Nhà hạnh phúc" được bày trò ra trong các
"trại cải tạo" sau năm 1980, như một
đặc ân cho người thất thế, mang nỗi
đau đớn của phận người, trông nhếch
nhác, bẩn thỉu và mỉa mai vô cùng.
(1) Ðảng làm "kiểng" do
ông Trường Chinh lập ra và cơm gạo thì do ông Nguyễn
Lương Bằng, phụ trách tài chánh, cấp.
HUY PHƯƠNG
(T.C.H
sưu tầm và chuyển)