Bên Kia Sông
(Hoàng Long Hải)
“Châu Ô châu Lý
mà chi nữa,
Đất đã mang về nỗi
biệt ly”
(Huy Phương)
Thành phố Quảng Trị ở bên nầy
sông Thạch Hãn, bên kia sông là
làng Nhan Biều, làng ngoại tôi.
Hình như dòng họ nội tôi có
máu lưu lạc tha phương. Ông nội
tôi bỏ làng mà đi khi ông còn trẻ,
lập nghiệp ở quê vợ của ông. Ba
tôi cũng bỏ làng mà đi, khi ông cũng
vừa hai mươi tuổi. Tới đời anh em
tôi cũng vậy, chẳng ai ở lại quê
nhà cho đến già, chết và chôn ở
quê hương. Có lẽ đó là định
mệnh.
Ba tôi từ Thừa Thiên tới Quảng Trị
khi ông còn trẻ, cưới mẹ tôi ở
ngay tại thành phố Quảng Trị. Rồi anh em
chúng tôi sinh ra và lớn lên ở
đó. Tuy làng ngoại ở bên kia sông,
chúng tôi cũng ít khi về.
Ấn tượng sâu sắc nhất của
tôi về làng ngoại là con sông Thạch
Hãn, con sông chảy ngang thành phố Quảng
Trị, nơi tôi sinh ra và lớn lên ở
bên nầy sông và làng ngoại tôi,
bên kia sông. Dĩ nhiên, con sông Thạch
Hãn đã để lại trong lòng tôi
quá nhiều ấn tượng thời thơ ấu cũng
như thời niên thiếu và cả sau nầy nữa,
khi tôi đã lang thang nơi xứ người, khi
tôi đã già nua tuổi tác, như
tôi có nhắc lại trong bài viết nhan
đề “Sông Thạch Hãn”.
Làng ngoại tôi bên kia sông cũng là
một hình ảnh ấm cúng và thân thiết,
bao giờ cũng nằm sâu trong tiềm thức của
tôi, từ khi tôi còn thơ dại. Quê
hương ấy, như những bức tranh nhiều
màu sắc, sống động, như một cuốn
phim đẹp đẽ và êm đềm, mỗi
khi tôi lưu lạc nơi xứ người, mỗi
khi buồn bã, nhung nhớ, mỗi đêm trằn
trọc, thao thức thì những thước phim thời
thơ ấu ấy như được gắn lên một
cái máy quay phim, từ từ và êm ái
hiển hiện ra trong trí óc tôi, làm cho
tôi đã không ngủ được lại
càng thêm thao thức vì những hình ảnh
xưa cũ thời thơ ấu. Thường “Cuốn
phim tiềm thức thức dậy” ấy bắt
đầu bằng một hình ảnh rất xưa
mà nay không còn nữa. Đó là
cái tháp đạo bên sông, mặc dù
người dân làng ngoại tôi ít ai theo
đạo Thiên Chúa.
Đứng đầu đường Cửa Hậu
(1), kế bờ sông, chỗ nhà tôi, ngó
qua bên sông là tháp đạo. Chỗ ấy,
ngày xưa triều đình Huế khi cấm
đạo, đã xử trảm ông thầy
dòng Thomas Nguyễn Văn Thiện. Sau khi triều
đình Huế bị thua Tây rồi, đạo
Thiên Chúa mạnh lên, họ bèn xây một
cái tháp đạo ở đó, để kỷ
niệm một người đã hy sinh vì
Chúa Giê Su.
Tháp đạo cách bờ sông không
xa.
Hồi xa xưa, có nhiều khi tôi ra ngồi
chơi bên bờ sông Thạch Hãn nhìn qua
cái tháp đạo bên sông. Cái
tháp đạo hình bút tháp, màu xi
măng xám buồn thảm, vươn cao lên giữa
đám cây dứa dại um tùm và nhiều
ngôi mộ ngổn ngang của làng, đằng sau
tháp đạo là một hàng dương liễu
bốn mùa xanh ngắt, tưởng như nó
là hậu cảnh của một cái sân khấu
vậy. Hình ảnh đó, hồi ấy, đem lại
cho tôi ý nghĩ về sự chết chóc
hơn là những ý niệm gì về việc
cấm đạo hay lòng trung kiên với tôn
giáo - buồn thảm và ma quái. Cho nên khi
chiều xuống đã lâu, khi bóng tối từ
từ lên cao, khi chim chóc bay về tranh nhau chỗ
ngủ ở cây đa kề bên tháp đạo,
kêu réo nhau om sòm thì tôi rời chỗ
ngồi bên nầy sông để về nhà. Mặc
dù hơi sợ ma, nhưng tôi biết chắc chẳng
có con ma nào ở bên kia vượt sông
qua đây để nhát tôi.
Ngay từ thời ấy, tôi không rõ
tôi thích hay không thích cái tháp
đạo ấy. Tôi không phải là người
theo đạo Thiên Chúa để có thể
nghe các ông linh mục giảng giải hay tuyên
truyền về lòng hy sinh cao cả của những
người vì Chúa mà giữ đạo
như ông thánh Thomas Thiện hay những người
tin chúa chạy trốn lên La Vang, - ở bên nầy
sông, cách thành phố Quảng Trị
không xa -. Và cũng không ai dạy cho tôi sự
kỳ thị tôn giáo để tôi không
ưa những người có đạo hay ngay cả
việc không ưa cái tháp đạo đứng
chơ vơ ở bên sông. Nhưng quả thật
khi Tây cho xe tăng bắn sập cái tháp
đạo ấy, lòng tôi không khỏi buồn.
Buồn ít hay buồn nhiều, tôi không chắc,
nhưng tôi đã có buồn vì cái
tháp đạo bên sông không còn nữa.
Số là khoảng đầu năm 1954, có
lẽ khi trận đánh Điện Biên Phủ
càng lúc càng căng thì Việt Minh ở
xứ tôi cũng tăng cường hoạt động
để cầm chân lính Pháp. Một
đêm, Việt Minh đem súng cối về
bên sông, đặt sau cái tháp đạo
để pháo kích qua thành phố. Không
biết đạn pháo kích của Việt Minh
trúng những đâu nhưng lính Tây ở
Trung Đoàn Kỵ Binh Hải Ngoại Số 1
(1ère Étrangère Regiment De Cavalier) đóng ở
nhà thương cũ đã cho xe tăng của họ
ra đậu nơi bờ sông, nhắm thẳng đại
bác vào cái tháp đạo mà phản
pháo. Có lẽ mấy “anh Việt Minh” chạy
trối chết vì từ trước đến giờ
họ vẫn núp bên tháp đạo pháo
kích qua sông nhưng chưa bao giờ Tây
đem xe tăng phản pháo một cách dữ dội
như thế. Nạn nhân không ai khác
chính là “cái tháp đạo của
tôi”. Sáng ra, tôi không còn thấy
cái tháp đạo đâu hết. Nó
đã “bay mất” vì những quả
đạn trên xe tăng của Tây bắn ra.
Và dĩ nhiên, trong lòng tôi nổi lên
một nỗi buồn. Làng tôi mất đi
cái tháp đạo không phải của
làng, nhưng lòng tôi mất đi một
hình ảnh buồn bã đã ghi dấu ấn
sâu đậm trong lòng tôi khi tôi còn
thơ ấu.
Năm 1958, tôi dạy tạm mấy tháng ở
trường trung học Thánh Tâm Quảng Trị,
cũng ông Thomas Nguyễn Văn Thiện, hiệu
trưởng, - ông thầy dòng đời nay
là “hậu duệ” ông thánh Thomas Thiện
bị trảm huyết ngày xưa -, nhân dịp lễ
thánh bổn mạng, ông tổ chức làm lễ
ở cái tháp đạo bên sông, làng
ngoại tôi. Ông Thomas Thiện có rủ
tôi qua tham dự. Tôi đi theo ông ấy. Giữa
cái nghĩa địa hoang tàn bên bờ
sông, chỗ kỷ niệm ấy đã được
xây dựng lại, bằng một tượng
đài thấp ngang mặt người. Người
ta không xây lại cái tháp đạo cao
như xưa. Và lòng tôi vẫn tiếc về
một cái tháp đạo bên sông tuổi
thơ của tôi vậy.
Dĩ nhiên làng ngoại tôi không chỉ
có chừng ấy. Trong tuổi thơ của tôi,
còn có con đường làng nhỏ nhắn
và lặng lẽ chạy dọc theo bờ sông, với
một nỗi buồn cô quạnh như bao nhiêu
con đường làng ở thôn quê Việt Nam. Đồng
hành với con đường làng nhỏ bé
là lũy tre làng xanh ngắt. Tôi không
được đến gần lũy tre để xem những
ngọn tre già ngả nghiêng theo gió như thế
nào, nhưng một màu xanh kéo dài chạy
dọc bên kia sông thường để lại một
ấn tượng tươi mát nào đó
trong tâm hồn tôi, không như những ngọn
dương liễu trồng dọc theo bờ sông
bên nầy, bao giờ cũng vi vu một điệu nhạc
trầm lắng và buồn bã muôn năm,
dù trong những ngày hè có gió
Lào nóng nực hay những ngày mưa
phùn có gió bấc lạnh lẽo từ
vùng Tây Bá Lợi Á thổi về.
Tôi yêu lũy tre làng ấy như tôi từng
yêu những lũy tre làng đã được
nhiều nhà văn mô tả trong văn
chương, và nó cũng để lại một
ấn tượng gần gũi khi ai đi xa về, thấy
lũy tre làng hiện ra xa xa ở phía chân trời.
Tôi cũng vậy, nhiều khi thấy lũy tre
làng, tuy chưa tới gần lũy tre làng ấy
lần nào, một cảm tưởng nhẹ
nhàng, gần gũi và thân ái hiện ra
trong trí óc trẻ thơ của tôi: Lũy tre
làng ấy là làng ngoại tôi
đó. Phía trên lũy tre làng, hướng
dãy núi Trường Sơn là một bãi
cát vàng rộng và phẳng.
Những ngày hè, khi nước sông Thạch
Hãn cạn xuống, tôi cùng những đứa
trẻ cùng tuổi bơi qua sông để đến
chơi ở bãi cát bên kia sông. Lần qua
sông đầu tiên thật là một
thành công vĩ đại, mặc dù từ chỗ
bắt đầu bơi bên nầy dòng nước,
qua tới bên kia, chỗ có thể đứng thẳng
được mà không lút đầu những
đứa trẻ như chúng tôi, xa chưa đầy
hai mươi thước. Dĩ nhiên, chúng
tôi phải chơi và phá cho thật dữ
để bù lại cái công trình vĩ
đại vượt qua con sông cạn đó.
Phá tức là lùng bắt cho hết những
đám dế lửa, dế mọi, dế ban-lông
núp dưới những thân bắp khô mà
người ta đã đốn và xếp
thành đống, là hái những trái
dưa non, trái quả, khoét một cái lỗ
để làm “nhà” cho những chú dế
đã kiên cường chiến đấu, nhiều
phen thắng trận vẻ vang, với tiếng kèn
vinh quang vang dội phát ra từ đôi cánh mỏng
manh của nó, sau khi địch thủ bỏ chạỵ
Hiền hơn một chút thì chúng tôi
ghé lại nền văn miếu cũ, trèo
lên những cây dương liễu còn
sót lại để bẻ cành hay đi sâu
vào trong xóm, tới nhà bạn học -
chúng nó ở bên sông nhưng sang học
bên nầy sông vì trong “tiêu thổ
kháng chiến”, trường đã bị
phá sập - kiếm khoai lang mới luộc hay khoai
lang lát phơi khô, nhai cho đã miệng.
Trước chiến tranh, khi tôi mới cắp
sách đến trường để học lớp
Đồng Ấu - với cô giáo đầu đời
của tôi là cô Hồ, một người
cháu kêu thân phụ tôi bằng cậu -
thì anh cả tôi, lúc đó cũng
chưa tới 15 tuổi, thường lấy xe đạp
của ông cậu tôi chở tôi qua chơi
bên Văn Thánh, hay còn gọi là Văn Miếu.
Chỗ ấy nay chỉ còn là cái nền gạch
không. Hình ảnh về một ông Thánh Khổng
cùng với “Thất Thập Nhị Hiền”
(2) không còn lại một chút gì trong tâm
hồn tôi. Có lẽ vì hồi ấy tôi
còn nhỏ, ưa chơi đùa quanh sân
Văn Thánh hơn là vào trong để xem
hình tượng mấy ông mũ cao áo rộng,
râu ngắn, râu dài mặt mày lúc
nào cũng nghiêm trang, đạo mạo và
khó đăm đăm mà trước
đó tôi không mấy gần gũi, chỉ thấy
hình vẽ mấy ông ấy đâu đó
trong sách “Luân Lý Giáo Khoa Thư”,
sách các anh chị tôi đang học. Nhưng
chắc chắn những hình ảnh ấy không
còn lại trong tâm hồn tôi không phải
vì một cuộc “Đại Cách Mạng
Văn Hóa” nào đó như bên
Tàu. Cũng may, tôi lớn lên chưa từng gặp
một cuộc “Đại Cách Mạng Văn
Hóa long trời lở đất” nào để
về sau, khi người ta nhớ lại không khỏi
khiếp đảm kinh hồn.
Tuy nhiên, có một âm thanh còn lại
sâu lắng trong tâm hồn trẻ thơ của
tôi là tiếng tắc kè kêu đâu
đó, trên mái nhà, trên xà
nhà khi tôi còn nhỏ đến chơi ở
đây với anh tôi. Hình ảnh một con tắc
kè to quá cỡ, da xanh lốm đốm trắng
mốc trông đến dễ sợ, - khác xa với
những con thằn lằn mỗi đêm thường
xuất hiện bắt muỗi trên vách nhà
tôi -, làm cho tôi sợ không ít. Nó
có cái vẻ gì đó ma quái, gần
gũi với âm ty nhiều hơn với cõi
dương chúng ta đang sống, và tiếng tắc
kè vang lên cô quạnh trong những buổi
trưa hè như tiếng vang vọng nào
đó phát ra từ cõi âm ty. Cái
âm thanh lạnh lẽo và ma quái để lại
một ấn tượng sâu sắc trong lòng
tôi cho tới bây giờ.
Bao giờ tôi cũng yêu quê ngoại
tôi nhưng tôi cũng không bao giờ nhận rằng
tiếng kêu của những con tắc kè ấy ở
văn miếu hay cái tháp đạo bên
sông thuộc về quê ngoại tôi. Chúng
thuộc về một thế giới khác nào
đó, mơ hồ hơn, xa vời hơn và cũng
buồn bã hơn, gần với âm cảnh nhiều
hơn là với quê ngoại bình yên
và lặng lẽ yêu dấu của tôi.
Cái cầu Ga nằm hơi xa thành phố một
chút, khiến cho những người qua sông bằng
xe phải đi xa hơn. Lấy chiếc xe đạp
đàn ông ra, anh tôi đặt lên
giàn sắt ngang một cái gối trẻ em để
tôi ngồi cho khỏi đau đít, rồi
chúng tôi bắt đầu một cuộc
hành trình về quê ngoại mà chỗ anh
em chúng tôi thường đến nhứt là
Văn Miếu. Con đường từ phía
ngoài thành phố đi lên phía cầu ga
hồi ấy chưa tráng nhựa, nên bánh xe
dằn lọc cọc trên những hòn đá
lớn bằng củ khoai lát trên mặt
đường. Nhiều khi anh tôi phải chạy xe
sát lề đường, chỗ không lát
đá, chỉ có đất đỏ để
xe chạy được êm, tránh cho tôi những
cú xóc đau đít dữ tợn nhưng
tôi không dám kêu đau, sợ lần sau
không còn được anh tôi chở đi chơi
nữa. Chưa kể những năm máy bay Mỹ Nhựt
đánh nhau, vỏ xe đạp cũng hiếm; thay
vào những bánh xe bơm hơi là những
bánh xe cao su đặc, giống như tình
hình miền Nam sau ngày “giải
phóng” vậy. Với hai cái bánh xe đặc,
chiếc xe trở thành một sức nặng quá
cỡ, và những cú xóc trên mặt
đường đá trở thành “vô tiền
khoáng hậu”.
Mỗi khi qua cầu Ga, tôi thường nhắm
mắt lại. Tôi sợ nhìn thấy mặt
nước xanh ngăn ngắt ở dưới cầu,
trông nó thật gần gũi với cõi
âm ty nếu như anh tôi không vững tay
lái khiến chúng tôi rơi xuống
đó. Tôi cũng sợ lỡ khi qua nửa cầu
thì xe lửa ầm ầm trờ tới, nếu
không rớt xuống cầu thì cũng đụng
nhằm con khủng long khổng lồ thời hiện
đại.
Những cảm giác vừa hồi hộp vừa
thích thú ngày ấy mỗi khi đi xe đạp
qua cầu, cách nay đã hơn năm mươi
năm, nhưng bao giờ tôi cũng thấy như gần
gũi lắm, chưa phải là những cảm
giác rời khỏi tiềm thức.
Thật vậy, về sau, khi đi qua nhiều chiếc
cầu sắt trên con đường xuyên Việt
như cầu Ga Huế, cầu Đà-Rằng hay cầu
Bình Lợi, cái cảm giác hồi hộp
và kỷ niệm thích thú hình như sống
lại gần nguyên vẹn trong lòng tôi vậy.
Quả tình tôi khó thể nào
quên được quê mẹ. Ngày sau lớn
lên, khi đọc thơ Huy Cận:
“Không cầu nối lại niềm
thông cảm
Lặng lẽ bờ xanh tiếp
bãi vàng”
là tôi nghĩ tới bãi cát
vàng bên kia sông và những hàng tre
dài bên làng ngoại, hiện ra rõ
ràng trong trí óc của tôi.
Cũng chưa hết đâu, nếu như
tâm trạng cô Kiều khi lưu lạc xa xôi
nơi “Cát vàng cồn nọ, bụi hồng
dặm kia” hay “Đùng đùng gió giục
mây vần, Một xe trong cõi hồng trần
như bay” và “Vó câu khấp khểnh,
bánh xe gập ghềnh” là tôi nghĩ tới
những chiếc xe chạy bên sông, từ Cầu
Nổi băng qua bãi cát vàng để đi
vào Quốc Lộ 1, cùng với những
đám bụi tung lên mù mịt phía sau
xe, khiến đôi khi tưởng như chiếc xe
đã biến mất trong đám bụi
vàng, mặc dù quê ngoại tôi không phải
là Vô Tích hay Lâm Chuy để cô Kiều
đặt bước chân giang hồ lưu lạc của
cô tới.
Những năm chiến tranh, khi cầu Ga (cầu xe
lửa bắt qua sông Thạch Hãn) bị Việt
Minh phá sập thì quân đội Pháp, sau
khi chiếm lại thành phố năm 1947, họ bắt
một cây Cầu Nổi ở chỗ nhà máy
nước cũ nối qua bên kia, chỗ bãi
cát bên sông.
Thời chiến tranh Việt Pháp, tôi
còn nhỏ, đêm nằm bên nầy sông,
vài khi khuya lắm, tôi nghe tiếng xe hơi chạy
ì ầm bên sông; có khi tôi nghe cả
tiếng xích sắt của xe tăng nghiến
trên đường nhựa. Kinh nghiệm trẻ
thơ của một đứa bé lớn lên trong
chiến tranh cho tôi biết rằng Pháp đang
chuyển quân. Họ đang chuẩn bị một trận
đánh lớn, như trận Thanh Hương chẳng
hạn. Thế nào những ngày hôm sau cũng
có tiếng súng nổ ầm ì ở
vùng quê. Thật vậy, năm 1953, trận Thanh
Hương lớn lắm, là đề tài một
bài bút ký chiến tranh của Bernard Falls với
nhan đề là “Con Đường Buồn
Thiu” (The Street Without Joys). Đó cũng là nhan
đề một cuốn sách nổi tiếng của
tác giả viết về chiến tranh Đông
Dương lần thứ nhất (1945-54) (3)
Trên con đường chuyển quân
đó, âm thanh ầm ĩ nhứt là khi xe qua
cầu Ái Tử. Mặt cầu không lót
ván mà lại lót bằng sắt nên tiếng
dội rất lớn. Tiếng động ấy gợi
cho tôi hình ảnh chiếc cầu nhỏ trên
một con sông nhỏ, ranh giới phía bắc của
làng ngoại tôi và làng Ái Tử.
Như nhiều người biết, Ái Tử đi
vào lịch sử từ lâu lắm, nhứt
là kể từ khi chúa Nguyễn Hoàng
vào trấn thủ đất Thuận Hóạ (4)
Tôi cũng có rất nhiều kỷ niệm
thời thơ ấu với Ái Tử, với
Chùa Phật Lồi, với chùa Sắc Tứ (Sắc
Tứ Tịnh Quang). Nhưng vùng nầy ở
ngoài địa phận làng ngoại tôi
nên tôi không viết vào đây làm
gì.
Hồi ấy, mới học lớp Đồng Ấu,
đọc chưa thông chữ Quốc Ngữ, tôi
vẫn lấy sách “Quốc Văn Giáo Khoa
Thư” đánh vần từng chữ để
đọc bài “Chim Sơn Ca”. Tiếng chim ấy
hót hay và vang xa lắm. Nhiều khi chim bay tuốt
trên trời cao, không thấy nó đâu cả
nhưng tiếng chim hót vẫn vang vọng tới tai
người nghe. Tôi yêu tiếng chim ấy. Vì
là dân thành phố, tôi chưa từng
được thấy chim sơn ca. Nhưng những lần
về thăm quê ngoại, ra chơi ngoài
đám ruộng trước nhà Cụ Đốc,
tôi vẫn không thấy chim sơn ca đâu cả.
Cái thất vọng ấy vẫn đeo đuổi
tôi đến nhiều năm, cho đến khi
khôn lớn. Ngày nay, tôi đã nghe nhiều
tiếng chim kêu rất hay do người ta nuôi
trong lồng. Nhưng chắc chắn, dù là tiếng
chim hót hay trong cảnh lầu son gác tía cũng
không bao giờ làm cho tôi thích thú bằng
tiếng hót của một con chim sống trong cảnh
tự do giữa trời cao đất rộng ! Chính
ngay con người của chúng ta cũng vậy
thôi.
Tôi vẫn mang trong lòng một nỗi tiếc
nuối ấy, cho tới bây giờ, tôi vẫn
chưa từng thấy một con chim sơn ca để biết
hình dạng và nghe tiếng chim hót hay như
thế nào.
Có lẽ ngay chính mẹ tôi cũng
không phải là người sinh ra ở làng.
Lâu lắm, hồi cuối thế kỷ 19, ông ngoại
tôi đóng “loon” đội lính Khố
Xanh trong cổ thành Quảng Trị. Không rõ
do đâu ông ngoại tôi cưới bà ngoại
tôi người làng Cu Hoan, Phủ Hải Lăng,
không phải là người cùng làng.
Ông ngoại tôi qua đời khi tôi chưa
có mặt trên cõi đời nầy. Cả
bà ngoại tôi cũng vậy. Bà ngoại
tôi quá vãng trước khi tôi đi học
lớp Đồng Ấu với Cô Hồ. Bà ngoại
tôi cũng được đem về chôn ở
quê chồng, như phong tục người Việt Nam
vậy. Ông bà ngoại tôi không có con
trai, chỉ có 6 người con gái. Mẹ tôi
là thứ ba, kể theo cách của người
Trung và người Bắc. Phần nhiều các
bà dì tôi qua đời sớm. Năm 1948, khi
hồi cư về thành phố Quảng Trị, mẹ
tôi chỉ còn hai chị em. Mẹ tôi và một
người em gái. Tuy vậy, ngay cả trước
khi chiến tranh Việt-Pháp, mẹ tôi là
người làm ăn khá giả nhứt và
không theo chồng đi xa như các chị em của
mẹ tôi nên mỗi năm, ngày giỗ kỵ
mẹ tôi đứng ra cáng đáng lo liệu
hết. Bà trở thành một “người
anh cả” để lo thờ phụng tổ tiên.
Mỗi lần kỵ, nhất là lần kỵ
ông ngoại tôi là kỵ lớn, các cậu
tôi ở bên sông che dù xuống đò
qua sông để dự đám kỵ nơi
nhà tôi. Có lẽ vì sống xa quê nội,
ít ai tới lui gần gũi và vì
thương mẹ, nên chúng tôi rất gần
với bên ngoại. Các ông cậu tôi,
dù không phải anh em ruột với mẹ
tôi, chỉ là bà con chú bác xa gần
nhưng bao giờ tôi cũng thấy rất gần gũi.
Các cậu ấy, kể cả Cụ Đốc Hy
là một ông quan lớn nên chúng tôi
ít dám tới gần, nhưng họ lại rất
thương mẹ tôi và thương các con của
bà. Tôi có rất nhiều kỷ niệm về
các ông cậu của tôi, như cụ Đốc
Hy tôi đã viết trong bài về Cụ (5),
Cụ Ngọ làm y tá ở Bệnh Viện Quảng
Trị trước năm 1945, người vẫn “tin
tưởng” anh em chúng tôi khi Cụ từ
bên kia sông qua tỉnh làm việc, gởi xe
đạp ở nhà chúng tôi. Anh cả
tôi đã lấy trộm xe của Cụ chở
tôi đi chơi Văn Thánh nhiều lần, Cụ
Kham và Cụ Trùm.
Cụ Kham là người tương đối
nghiêm khắc nhứt. Khoảng cuối thập niên
1950, khi tôi đã đi dạy ở Huế, một
hôm một mình Cụ Kham từ bên sông qua
kỵ ông ngoại tôi ở nhà tôi. Khi Cụ
qua tới nơi, mẹ tôi sai chúng tôi vặn
quạt máy để Cụ ngồi nghỉ ở
cái ghế salông trong phòng khách, pha nước
trà ngon để cụ giải khát, v.v…
Chúng tôi rất kính trọng Cụ.
Vậy mà một lần bỗng nhiên
chưa kỵ xong, Cụ bỏ ra về. Từ trên phố
về, thấy Cụ vừa ra tới bờ sông, mẹ
tôi vội vàng biểu xe xích lô dừng lại
hỏi “Sao kỵ chưa xong mà anh về ?” Cụ
Kham không trả lời, bỏ đi một mạch. Mẹ
tôi năn nỉ thế nào Cụ cũng không
nói, cứ lầm lũi đi. Mẹ tôi biết ở
nhà có chuyện gì đây làm phật
lòng Cụ. Chúng tôi chưng hửng không
biết chuyện gì mà bị mẹ rầy
nhưng đứa em gái tôi, lúc đó
chưa lấy chồng, ở nhà với mẹ,
thường hay chơi với các cháu gọi
nó bằng dì, bằng cô bèn nói:
“Tại mấy đứa nhỏ ni. Mấy đứa
ni hoang lắm !” Gia đình tôi lúc
đó, các anh chị em, tuy đã có gia
đình, có con cái nhưng sống tập
trung vào hai gian nhà kế cận nhau nên bọn
nhỏ có cơ hội đùa nghịch với
nhau suốt ngày. Khi chị dâu tôi nấu xong một
món kỵ, sai mấy đứa nhỏ bưng từ
nhà bếp lên đặt trên một cái
bàn trước bàn thờ, chờ xong xuôi tất
cả, anh lớn tôi đang là công chức,
xin phép về nhà sớm để lo cúng cho
kịp giờ ngọ.
Những đứa cháu trai năm bảy tuổi
(khi qua đời mẹ tôi có 23 đứa
cháu nội ngoại kể cả trai lẫn gái),
mỗi khi bưng dĩa thức ăn từ nhà bếp
đi lên, chúng thường đùa với
nhau: “Cái ni của tau. Cúng xong tau ăn
cái ni.” Đứa thì bưng dĩa thịt
heo, đứa bưng dĩa thịt bò xào, đứa
bưng con gà luộc, v.v… Chúng vừa bưng
đi vừa chỉ chỏ vào món ăn trên
dĩa mà đùa với nhau như vậy. Cậu
Kham tôi chẳng rầy chúng một tiếng,
nhưng có lẽ trong lòng cậu tôi giận
chúng lắm, những đứa con nít tham ăn
và vô lễ. Thế rồi Cậu tôi giận
dữ đứng dậy xách dù ra về.
Biết chuyện ấy, mẹ tôi “tập
trung” mấy dứa nhỏ lại, la rầy sơ qua
vì mẹ tôi là người rất
thương và cưng các cháu của
bà, nhất là những đứa cháu ngoại,
những đứa cháu đẹp nhứt nhà,
đẹp như “hột nổ”, mẹ tôi
thường khen cháu của bà như vậy.
Người Cậu thương mẹ tôi
và chúng tôi nhứt là Cụ Trùm. Cụ
đã xông pha nguy hiểm để cứu mẹ
tôi và chúng tôi.
Gọi là Cụ Trùm vì cụ làm
Trùm trong làng. Cụ góa vợ sớm,
có hai người con gái, chị Hựu, chị
Thiện và một ngườì con trai, anh Bỉnh.
Trước 1945, khi anh Bỉnh còn đi học ở
École Primaire de Quangtri, buổi trưa anh thường
ăn cơm trưa và nghỉ lại nhà tôi.
Nhờ đó, anh em chúng tôi rất gần gũi
anh.
Cuối năm 1946, “Toàn Dân Kháng Chiến”,
cha mẹ tôi dẫn chúng tôi tản cư. Sau
tết Mậu Tý 1948, cha tôi qua đời khi
còn ở trên chiến khu. Mẹ tôi và anh
chị em chúng tôi cũng ở chiến khu.
Mùa hè năm ấy, Tây lên lùng. Nhiều
người bỏ kháng chiến về thành phố.
Mẹ tôi dẫn chúng tôi đi theo một
con đường mòn trong núi. Con đường
chạy dọc theo bờ sông Thạch Hãn, từ
Chà Cá về tới bến đò Trấm.
Trên đường về, anh cả tôi khóc.
Anh mới 20 tuổi, còn “mê” kháng chiến,
vì nghe lời mẹ mà phải về thành chứ
anh chưa muốn về, không muốn “theo
Tây”. Anh đi trước dẫn đường.
Có một anh bộ đội, cũng người
thành phố, chặt một khúc cây làm gậy
đi sau chị tôi đang gánh một gánh
đồ đạc và áo quần của cả
nhà. Anh canh chừng, sợ cọp thường hay
rình bắt những người đi sau cùng
trong các đoàn người đi rừng. Anh bộ
đội vừa đi vừa hát “Nhớ Chiến
Khu”: “Chiều nay xa chiến khu trên đường
về, Bên đồi nhìn thông reo, ngàn
thông reo…” Có lẽ lòng anh cũng buồn
khi phải rời cuộc chiến để làm một
người “đầu thú”. (6)
Từ Trấm chúng tôi về An Đôn,
ngụ tạm nơi nhà Cậu Hai Phố. (7) Nhà
nầy tuy là nhà tranh nhưng lớn hơn những
nhà trong làng. Cột, xuyên, trến làm bằng
gỗ mít, chạm trổ rất đẹp, khảm ốc
xà-cừ, và mái tranh lợp rất dày.
Nhà nằm trong một khu vườn rộng trồng
rất nhiều mít. Nhìn qua, người ta biết
Cậu Hai Phố của tôi, chủ nhà, là
nhà giàu có. Cậu Hai và gia đình
đã bỏ nhà hồi cư về thành phố.
Hằng ngày chúng tôi chạy chơi
quanh vườn, trèo hái cây trái ăn cho
đỡ đói. Đêm đêm chúng
tôi nghe rất rõ tiếng động ầm ầm
như ai lấy búa lớn gõ vào cầu sắt.
Đó là Tây đang sửa chữa lại cầu
Ga Quảng Trị đã bị Việt Minh giựt sập.
Thấy gia đình tôi gốc thành phố
từ chiến khu về đây, gần thành phố
hơn nên Việt Minh cắt người canh chừng.
Đêm họ cho người ngồi canh trên
cây mít.
Khoảng năm bảy ngày sau, khi trời mới
sập tối, Cậu Trùm, anh Bỉnh và chị
Thiện lên tận đây đón gia
đình chúng tôi về làng ngoại để
hồi cư về thành phố. Thì ra mẹ
tôi đã nhắn về làng, nhờ Cậu
tôi lên đón chúng tôi về.
Cậu Trùm tôi cõng Hùng (móm),
đứa nhỏ nhứt trên lưng. Anh Bỉnh dẫn
hai đứa em gái tôi, còn tôi đi theo
chị Thiện. Chị chỉ lớn hơn tôi
vài ba tuổi. Chúng tôi được dặn
kỹ là không được làm ồn,
không la khóc, cứ lặng lẽ đi theo người
lớn.
Chúng tôi đi trong bóng đêm mờ
mờ, theo con đường mòn từ làng
An-Đôn về làng Nhan-Biều. Tôi đi
chân đất, nhiều khi vấp ngã nhưng
không dám kêu to, tuy lúc đó tôi
chưa biết sợ Việt Minh. Trước khi băng
ngang đường xe lửa, chị Thiện đi
lên trước để quan sát có Tây phục
kích hay không. Khi thấy an toàn, Cậu
Trùm dắt cả gia đình chúng tôi
vượt nhanh qua một cái dốc ao. Con đường
sắt nằm dài trên ấy. Qua khỏi nơi nầy,
coi như chúng tôi được an toàn.
Bây giờ chị Thiện mới buông nhẹ tay
tôi để tôi đi thoải mái hơn.
Tôi nhớ rõ nhất khi tôi bị vấp,
chân đau lắm và chút nữa té, chị
nắm tay tôi mà xuýt xoa, hỏi nhỏ:
“Em có đau lắm không ? Em có đau lắm
không ?” Tuy tôi đã trả lời
không nhưng chốc chốc, chị ấy lại hỏi
thăm tôi như vậy.
Về tới nhà Cậu, nhà chẳng
có ai. Như tôi đã nói, mợ tôi
qua đời đã lâu. Hiện Cậu tôi
đang ở với hai con: Anh Bỉnh và chị Thiện.
Chị Hựu đã theo chồng.
Để chuẩn bị đón o (Cô)
và các em, chị Thiện nấu sẵn một nồi
khoai lang, một thứ thổ sản của bãi
cát bên sông làng ngoại tôi. Có lẽ
đã khuya, không ai ăn nhưng tôi và
người anh tôi “chiếu cố” rổ
khoai lang rất tận tình. Sau khi ăn vài củ,
chị Thiện đến bên rổ khoai, lựa một
củ trắng to, nói với tôi: “Em ăn củ
ni. Củ ni bở, ngon.” Tuy không còn muốn
ăn nữa, tôi cũng đưa tay nhận củ
khoai từ nơi tay chị Thiện. Tôi đi ngủ
với củ khoai đó, để trên bộ
ván ngựa, ngang với đầu tôi. Sáng
hôm sau, khi mọi người ăn khoai lang mới nấu
thì tôi ăn củ khoai chị Thiện cho từ
tối hôm trước.
Sau khi ăn uống xong, mẹ tôi dẫn
chúng tôi ra bờ sông đi về hướng
Cầu Nổi để qua thành phố Quảng Trị.
Sau ba năm tản cư, nay gia đình chúng
tôi hồi cư. Trong số những người ra
đi hồi ba năm trước, nay thiếu mất hai
người không về. Đó là ba tôi
(tôi gọi bằng cậu), nằm lại ở
bãi tha ma trên chiến khu “Bơơng”
và chị cả tôi, qua đời trước ba
tôi một năm, nằm lại trên ngọn đồi
cát làng An-Mỹ, cách cửa Tùng
không bao xa. Có lẽ mỗi buổi sáng, nằm
lại đó, ba tôi còn nghe tiếng vượn
hú ở những ngọn núi quanh thung lũng
“Bơơng” bên bờ sông Thạch
Hãn, trong cảnh sương mù dày đặc
của buổi sớm mai, chỉ nghe tiếng vượn
hú mà không thấy chúng đâu cả.
Và chị tôi nằm trên ngọn đồi
cát làng An-Mỹ, đêm vẫn nghe tiếng
sóng biển Đông vỗ rì rào ở bờ
biển cửa Tùng.
Những người về như mẹ tôi
và anh chị em chúng tôi sau ba năm theo
kháng chiến, nay thì rách rưới và
đói khổ không khác chi … ăn màỵ
Tuy vậy, cũng có điều an ủi. Anh Xạ Thử
(Lê Văn Thử) đang làm lý trưởng
phường tôi ra tận bãi cát bên
sông để đón mẹ tôi và anh chị
em chúng tôi về. Anh ấy ngồi chờ ngay giữa
bãi cát, bên cạnh con đường xe
hơi nối liền Cầu Nổi với Quốc Lộ
1, không dám đi vào sâu hơn nữa
vì sợ Việt Minh. Gặp mẹ tôi anh mừng
lắm, nắm tay mẹ tôi nói: “Chị với
mấy cháu về rứa là trễ lắm rồi.
Thiên hạ người ta đã hồi cư hết
rồi.” Biết mẹ tôi lo cho người anh lớn
của tôi có thể bị Tây bắt bỏ
tù, anh nói: “Tui làm lý trưởng.
Tui qua đây để đón chị và mấy
đứa về. Có tui bảo lãnh. Chị đừng
lo chi.”
Giữa anh Xạ Thử với gia đình
tôi có mối quan hệ thâm tình. Bố vợ
anh ấy, trước 1945 là ông Xã Hưng,
lý trưởng phường tôi. Nay anh nối nghiệp
ông bố vợ. Mẹ vợ cũng như vợ anh ấy,
trước 1945 có một thời là đồng
nghiệp với mẹ tôi ở bệnh viện Quảng
Trị. Khi mẹ tôi thôi việc, bà ấy cũng
nghỉ theo. Đó là mối quan hệ lâu
đời từ những người sống chung trong một
phường, cùng làm việc một nơi. Do
đó, khi nghe tin mẹ tôi và chúng
tôi hồi cư, đích thân anh Xạ Thử
ra tận bãi cát bên sông đón gia
đình chúng tôi về để, cốt yếu
là để mẹ tôi yên tâm.
Tôi không nhớ rõ cảnh hôm
đó tôi từ giã nhà cậu tôi
như thế nào nhưng củ khoai trắng chị
Thiện cho tôi từ tối hôm trước
là một món ăn khó quên. Tôi cũng
không nhớ buổi sáng gia đình tôi rời
nhà Cậu hồi cư, chị Thiện buồn vui
như thế nào !
Tuy nhiên, hằng năm, mỗi khi mẹ tôi
kỵ ông ngoại tôi thì Cậu Trùm
tôi cùng chị Thiện bên kia sông sang dự
đám kỵ. Những năm tôi đã lớn,
học trung học, khi qua dự đám kỵ, chị
Thiện thường tò mò cầm xem qua những
cuốn sách tôi đang học. Có vẻ
như chị tiếc nuối vì lớn lên ở
thôn quê, không được tiếp tục cắp
sách đến trường. Đôi khi tôi nhắc
đến Nguyễn Cả, Nguyễn Quyền những
người bà con bên ngoại của chị, tuy họ
lớn tuổi hơn tôi nhưng là bạn học
hồi ở tiểu học với tôi. Những
người bạn nầy, sau khi đậu tiểu học,
bỏ học và lần lượt nhập ngũ, một
người đã hy sinh.
Năm 16 tuổi, tôi đi xa. Cũng năm
đó, cậu Trùm tôi qua đời nhưng sợ
Việt Minh, gia đình tôi không ai về dự
đám. Năm sau, anh Bỉnh tập kết ra Bắc.
Mãi khi đã có hiệp định
Genève, hòa bình lập lại, tôi mới
có dịp về thăm làng ngoại.
Tôi tìm lại nhà cậu tôi hơi
khó vì cảnh sắc thay đổi nhiều. Vả
lại, tuy tôi có về làng mấy lần,
nhưng thuở ấy, tôi còn thơ ấu,
tôi không nhớ được nhiều về những
gì tôi đã thấy trên con đường
xóm. Căn nhà vẫn như cũ nhưng cảnh
vật trông thật tiêu điều vắng vẻ.
Thật vậy, cậu Trùm tôi thì qua đời,
anh Bỉnh tập kết ngoài Bắc, chị Hựu
theo chồng vào Nam.
Chỉ còn lại chị Thiện sống một
mình nơi căn nhà cũ.
Cái cổng tre tuy đã cũ, nhưng
không xiêu vẹo, có lẽ được
chăm sóc. Con đường từ cổng đi
vào cái sân nhỏ trước nhà dẫy
cỏ sạch sẽ, hai bên đường là hai
vườn ớt. Ở quê tôi, vào mùa
xuân, người dân bắt đầu trồng ớt.
Tới giữa mùa hạ là ớt chín. Những
trái ớt sừng trâu màu đỏ
tươi chen lẫn giữa những trái ớt
còn màu xanh già, những trái ớt hườm
sắp chín trông những cánh hoa. Những
trái ớt ấy không cay lắm. Khi ăn, người
ta cầm trái ớt cắn bụp một cái nghe
vừa dòn vừa ngon và không đến nổi
phải hít hà như khi người ta ăn
trái ớt hiểm. Ớt không cay lắm và
người đàn bà quê ngoại tôi cũng
không hay ghen như trái ớt hay cay. Tôi thường
nhớ ớt quê tôi như người ta nhớ
cà.
Tôi vừa đi vừa suy nghĩ như thế
trên con đường vào nhà, bỗng gặp
ngay chị Thiện đứng ngay cửa, chờ tôi
vào. Chị cười, khá tươi. Tôi hỏi:
- “Ai trồng ớt mà đẹp vậy chị
?”
- “Cậu không nghĩ ra là chị trồng
đó à?” Chị tôi trả lời.
- “Không ! Em không nghĩ chị là con
gái làm được việc nặng nhọc
đó.” Tôi nói.
- “Cậu quên rồi. Chị là con
gái nhà quê. Nhiều người còn
làm được những việc nặng nhọc
hơn nữa tê !” Chị Thiện vừa cười
vừa trả lời tôi.
Lần về quê đó tôi không khỏi
buồn. Buồn vì cảnh nhà cậu tôi trở
nên hiu quạnh và chị tôi sống một mình.
Tôi vẫn mang trong lòng nỗi thắc mắc,
không còn cha mẹ, anh chị em, chị Thiện
vui như thế nào nhỉ ? Đời không vui
thì buồn lắm. Tôi còn trẻ, tôi
đang tìm kiếm và được nhiều niềm
vui trong đời sống của một người học
trò. Làm sao tôi không nghĩ đến chị
tôi, một người chị, một ân nhân,
một người tôi mang ơn rất nặng
vì kỷ niệm hôm chị nắm tay tôi dẫn
đi, cùng với anh và cậu đem mẹ
tôi và anh chị em tôi hồi cư trong nỗi
lo sợ bị Việt Minh bắt giữ là những
điều không bao giờ tôi quên được,
không bao giờ tôi muốn quên. Càng
ngày càng thấy sự tàn ác của Việt
Minh, tôi càng nghĩ tới công ơn cậu
và anh chị tôi khi đưa gia đình
tôi hồi cư là một sự liều lĩnh,
gan dạ vì nếu như bị Việt Minh bắt
thì tất cả chúng tôi đều mang tội
Việt Gian, theo Tây. Những người càng lớn
tuổi tội càng nặng và dĩ nhiên sự
tù đầy gian khổ sẽ không biết thế
nào nói hết được. Thế mà giờ
đây gia đình cậu tôi tan tác, kẻ
bắc, người nam và chị Thiện thì nay
đang sống thui thủi một mình.
Thế rồi tôi bỏ Quảng Trị mà
đi !
Có một mùa hè nào đó,
tôi quay trở lại nhà tôi ở thị
xã. Mỗi chiều, tôi ra ngồi bên bờ
sông Thạch Hãn, vui hưởng cái thú
khi tôi còn niên thiếu: Nằm trên
bãi cỏ xanh bên bờ sông, mắt theo
dõi những đám mây trắng như
bông bay ra bay vào từ dãy Trường Sơn
xanh ngắt trùng điệp ra biển hay từ biển
bay vào núi, nhìn những ngọn dương
liễu cao vút chỉ chỏ vẩn vơ trên bầu
trời xanh trong mùa hạ. Dĩ nhiên, cũng
không ít lần tôi nhìn sang bên kia
sông, nhìn bãi cát vàng bên sông,
phía hơi chếch về hướng núi,
nhìn lũy tre làng, hơi chếch về hướng
đông môt chút. Bên kia sông là
làng ngoại tôi đó. Đã bao
nhiêu lần tôi tự nhủ thầm như vậy.
Dĩ nhiên, ai cũng vậy, càng thương mẹ,
người ta càng yêu làng ngoại của
mình. Tôi thì hơi khác đi một
chút, tôi nghĩ tới và thương
các ông cậu, anh của mẹ tôi, hầu
như tất cả các cậu đều đã
ra người thiên cổ: Cậu Trùm, cậu Ngọ,
cậu Kham. Cậu Đốc đã cùng gia
đình đi xa, Nha Trang, Saigon
? Và tôi không thể nào không nghĩ tới
ân nhân của tôi, cũng là người
chị tôi mang ơn và từng yêu mến: Chị
Thiện. Cho đến một hôm, nhớ làng,
tôi quyết định về thăm.
Khi xuống đò ở bến Chợ để
qua làng, tình cờ tôi gặp chị Thiện
cũng qua thành phố về. Tôi hơi sững sờ,
hỏi chị:
- “Răng chị không ghé nhà em
?”
Chị Thiện hơi bối rối:
- “Chị … chị gấp. Chị phải về
gấp!”
Tôi biết chị Thiện nói dối.
Thái độ bối rối của chị làm
cho tôi nghĩ như vậy ! Điều chị
nói dối không quan trọng. Điều tôi thắc
mắc, đau lòng là tại sao chị không
ghé nhà tôi, ghé thăm mẹ tôi. Chị
thấy có sự lạt lẽo của mẹ tôi,
của anh chị em tôi đối với chị, khiến
chị không muốn gần gũi hay đó chỉ
là sự xa cách thường tình trong đời
sống thường: Dòng sông
nào rồi cũng chia ra nhiều nhánh. Cuộc
đời nào cũng ly cách, chia lìa.
Điều đó rất trái với lòng
tôi. Càng thương mẹ, tôi càng muốn
gần gũi thêm với bà con bên ngoại, với
các cậu, các mự (mợ), các anh,
các chị. Càng gần bên ngoại có nghĩa
là càng thương mẹ. Hơn vậy nữa,
chị Thiện, cậu, anh Bỉnh là ân nhân
của gia đình tôi. Có bao giờ tôi
quên được tối hôm ấy, cậu
Trùm, anh Bỉnh, chị Thiện lên tận
vùng Việt Minh để đón mẹ và
anh chị em chúng tôi hồi cư, “theo
Tây.”
Thế rồi tôi lại bỏ Quảng Trị
mà đi thêm một lần nữa!
Ôi ! Quê hương yêu dấu. Nơi
đó, thế rồi ai ai cũng bỏ mà đi,
đó không phải là nơi ở lại
để mà sống. Đất không bỏ
người mà người đành bỏ đất
! Trong nỗi niềm, trong tình cảm của người
đồng hương, bao nhiêu đau xót lại
nổi lên !
Mùa hè năm sau, khi trở lại Quảng
Trị, tôi bỗng thấy nhớ làng ngoại
và nhất là nhớ chị Thiện. Lần gặp
gỡ trên chuyến đò ngang về quê ngoại
năm trước vẫn còn ám ảnh tôi
hoài. Tại sao chị Thiện qua tỉnh lỵ
mà không ghé thăm mẹ tôi ? Mặc cảm
vì gia đình mình đối xử không
tốt với chị, ám ảnh về những nỗi
ly biệt trong cuộc đời vốn quá nhiều
biệt ly, xa cách, tôi về thăm quê ngoại,
thăm chị Thiện, cố níu lại sự gần
gũi giữa gia đình tôi với bà con
máu mủ bên ngoại. Nhưng khi tôi về
đến nhà cậu tôi thì nhà
đã đổi chủ. Gia đình đang ở
đây là người bà con bên ngoại của
chị. Còn chị Thiện thì đã đi
tu. Hai chữ đi tu như một nút thắt, thắt
ruột tôi lại. Tại sao chị tôi không sống
một đời bình thường, có chồng,
có con như bao nhiêu người khác ? Người
đi tu là người thường có tâm sự
u uất, hay gặp một nỗi thương tổn lớn:
Thất tình, không lấy được người
mình yêu, gặp cảnh gia đình tan
nát, ly cách đớn đau, thấy đời
là ô trọc, hoặc mong tìm một kiếp
người bình an ở một nơi yên tĩnh…
Dù bất cứ với lý do nào đi nữa,
việc chị Thiện vào chùa là một
đám mây u ám bao phủ tâm hồn
tôi, một nỗi thương cảm xót xa cho một
người chị, một ân nhân không có
được cuộc sống bình thường
như mọi người. Chị tôi ! Một tâm
hồn đau khổ, một cõi lòng sóng
gió, một nỗi ngậm ngùi, …
Khi tôi tới chùa Sắc Tứ ở
xã Ái Tử thì vị sư già cho
tôi biết chị Thiện đã vào
chùa Sư Nữ ở Huế. Chùa Sư Nữ
là nơi tôi đến thăm lần đầu
khi tôi mới 16 tuổi, chỉ là vì tò
mò về một ngôi chùa lạ, dành cho
các công chúa muốn thoát vòng tục
lụy, cho quí bà, quí cô. Hơn thế nữa,
các bà phi, các cung nữ nhà Nguyễn, những
người không có con cái, đơn độc
khi vua băng hà thì họ lên ở lăng
để thờ phụng tiên đế. Tới khi họ
già cả thì về tu ở chùa Sư Nữ.
Có thể coi như chùa Sư Nữ là
nơi trú thân cuối cùng cho những người
đàn bà con gái đã một thời
cô đơn trong cung lạnh, những người
đã một thời “Trải vách quế
gió vàng hiu hắt”. Dù sống ở trong
Đại Nội, dù được đưa
lên lăng hay cuối cùng về chùa Sư Nữ
thì đó cũng chỉ là những cuộc
đời tiếp nối những nỗi cô
đơn. Chị Thiện tôi không là cung nữ,
không có cuộc sống lạnh lẽo ở
lăng, nhưng có lẽ từ khi mợ tôi qua
đời, chị sống với cha, với anh, với chị
nhưng tâm hồn chị Thiện là một nỗi
cô đơn vô hạn bởi vì mất mẹ
là cái mất lớn nhất trong đời một
người, là mất cả một bầu trời
như Xuân Tâm nói trong hai câu thơ:
Tôi biết tôi mất mẹ
Là mất cả
bầu trời !
Mấy năm liền
tôi không về Huế cũng như về Quảng
Trị. Cuộc đời của
một người lính đưa tôi đi rất
xa, một nơi trước 1945, có người gọi
nó là một nước khác: Nước
Saigon.
Cuộc hành quân Lam Sơn 719 diễn ra hồi
tháng giêng -1971, tôi bị lôi cuốn
vì bức thư của môt người bạn từ
Khe Sanh gởi gấp về cho tôi: “Mày
hãy ráng ra đây một lần mà xem. Trực
thăng nhiều hơn chim bay trên trời, còn
người thì nhiều hơn lá cây rừng.
Không dễ gì Việt Cộng pháo kích
trúng mình mà chết được.”
Tôi trình bày với ông xếp tôi, giả
nói là đi tìm tài liệu cho khối
Chiến Tranh Chính Trị, nhưng thực chất
là để đi một lần cho biết. Thực
ra, ở bộ chỉ huy binh chủng tôi, mấy
ông lớn hầu hết đã ra Khe Sanh. Từ
phi trường Tân Sơn Nhất, tôi lên chiếc
C-141 của Quân Lực Mỹ tới phi trường
Đông Hà. Từ Đông Hà, đang chiến
dịch, xin trực thăng bay lên Khe Sanh không
khó gì. Chiếc C-141 bay đằm bao nhiêu
thì trực thăng HU-1B làm lộn ruột
ngưòi đi bấy nhiêu. Để tránh
súng địch, trực thăng bay sát ngọn
cây và lên xuống theo triền núi và
thung lũng. Những phi công trẻ Việt Nam bay
vào đất giặc mà vừa bay vừa uống
bia, không giống một chút gì khi Kinh Kha sang
Tần. Họ làm như một cuộc dạo
chơi ở đường phố Lê Lợi Saigon.
Hôm sau, trên đường về, tôi ghé
lại thị xã Quảng Trị thăm nhà. Qua một
đời lưu lạc, sau mấy năm trở về,
tôi lại ra đứng bên nầy sông,
nhìn qua bên kia sông, những nỗi xúc cảm
sâu kín trong lòng tôi bỗng nổi
lên, xao xuyến như khi tôi còn trẻ dại.
Lần nầy về, mẹ tôi không còn ở
Quảng Trị, đã mấy năm không gặp
mẹ, trông qua làng ngoại, tôi lại
thương mẹ tôi biết bao nhiêu ! Tôi tự
hỏi thầm: “Mạ ! mạ ở bên sông
hay mạ đã đi xa rồi !” Càng
thương mẹ, tôi càng yêu quê ngoại.
Và tôi cũng nghĩ tới chị Thiện. Chị
cũng không còn ở trong gian nhà lá ở
bên sông.
Đó là lần chót tôi về thị
xã Quảng Trị mà không qua thăm quê
ngoại. Năm sau, tháng 7- 1972, trận chiến Quảng
Trị bùng nổ, cầu Dài trở thành
“đại lộ kinh hoàng”, tôi về
đến Huế để dự đám ma
“Hùng móm”. Quảng Trị đã mất
vào tay giặc, không còn về được
nữa.
Sau đám ma, tôi chọn một ngày
lên chùa Sư Nữ thăm chị Thiện,
không cho ai trong gia đình tôi biết tôi
đi thăm chị ấy. Tôi rủ một người
bạn đang làm việc ở tiểu khu, lấy xe
Jeep chở tôi đi. Lăm lăm súng cầm tay,
tôi cười nói với người bạn:
- “Đi thăm chùa mà như đi
vào đất giặc.”
- “Vào đất giặc để cứu
chùa” - Bạn tôi cười nói. “Cứu
cả bà chị ông đấy, để bà ấy
bị giặc bắt thì nguy !” Bạn tôi
nói tiếp.
Thực ra lúc ấy, Quảng Trị vừa mất,
quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang
được lệnh tái chiếm. Để ngăn
chận bước tiến của quân ta, Cộng Sản
Bắc Việt đang áp sát thành phố Huế.
Đêm đêm chúng vẫn còn pháo
kích bừa bãi vào thành phố, bất kể
trúng trật mục tiêu quân sự.
Người bạn tôi dừng xe phía
ngoài cổng, cùng với tài xế chờ
tôi. Khi đi vào chùa, tôi thấy tôi
và bạn tôi khá liều lĩnh, lên
chùa trong lúc chiến trận đang xảy ra
như thế nầy. Tuy nhiên, tôi linh cảm rằng
có lẽ về Huế lần nầy là lần
cuối, có lẽ lâu lắm tôi mới quay trở
lại nên thế nào tôi cũng phải đi
thăm chị Thiện !
Thấy tôi mặc quân phục vào
chùa, sư cô tiếp tôi tỏ vẻ hơi e
ngạị Tôi phải khẩn khoản với sư
cô rằng tôi ở xa về, không có nhiều
cơ hội để thăm chị tôi nên sư
cô mới chịu gọi chị tôi ra cho gặp.
Thấy chị Thiện, tôi xúc động thật
sự vì chị ấy da trắng xanh và gầy
đi nhiều. Chị Thiện tỏ ra ngạc nhiên
khi thấy tôi về thăm và hơi sững sờ
khi thấy tôi mặc quân phục. Trước kia,
mỗi khi gặp chị, tôi chưa nhập ngũ.
Hai chị em chúng tôi ngồi trên một
cái ghế đá ở góc vườn trước
cửa chùa. Cái ghế đặt gần kề một
gốc mít già. Tôi mở đầu câu
chuyện:
- “Chị khỏe không ?”
Chị Thiện trả lời, giọng rất nhỏ,
êm nhẹ, đúng là giọng nói của
một người nữ tu hành:
- “Chị khỏe ! Em đi lính khi mô
?” Chị hỏi.
- “Em đi lính sau Tết Mậu Thân. Em
không còn đi dạy được nữa.”
- “O với mấy
em có khỏe không ?” Chị lại hỏi.
- “Cám ơn chị,
khỏe cả. Gia đình em không còn ai ở
thị xã Quảng Trị cả. Chạy vào Nam hết
cả rồi. Em về Huế công tác.”
Tôi dấu chuyện về đám ma “Hùng
móm”. Tôi không muốn chị ấy biết
thêm một chuyện buồn !
Ngoài những lời
thăm hỏi, chúng tôi nói bâng quơ
vài câu chẳng trúng đâu vào
đâu rồi tôi chào chị ra về. Chờ
bóng chị khuất sau tấm bình phong trước
cửa nhà ở của các ni cô, tôi
quày quả ra xe, lòng buồn rười rượi.
Tôi muốn tỏ bày với chị Thiện nhiều
mối xúc cảm nảy sinh trong lòng tôi, khi
tôi còn thơ ấu, lần đầu tiên gặp
chị khi chị lên làng An Đôn đón
gia đình tôi hồi cư, về củ khoai lang
trắng chị Thiện cho tôi đêm đó.
Ngoài củ khoai ăn cho đỡ đói, chị
ấy còn gởi gắm cái tình cảm
nào của chị cho tôi mà chỉ riêng một
mình tôi mới được chị cầm
đưa cho một củ khoai. Hình ảnh chị với
mấy sợi tóc mai lơ phơ trước cái
trán trắng và phẳng của chị khi chị
đứng bên tôi cúi xuống đọc trang
sách tôi đang học, với một thái
độ tiếc rẻ không còn được cắp
sách đến trường, làm cho tôi vô
cùng xót xa, và hình ảnh chị khi chị
đã lớn, đứng trước cửa
tươi cười nhìn tôi khi tôi đi
băng qua sân nhà chị trong một lần
tôi về thăm.
Lòng tôi ngổn
ngang trăm điều muốn nói mà chưa
nói được, nhất là tôi muốn tỏ
bày một điều tôi đã từng ấp
ủ khi tôi mới lớn, một điều tôi
đã chuẩn bị sẵn, bằng cách
nào khi nghe tôi nói, chị Thiện sẽ
không ngạc nhiên, không giận tôi. Có
thể câu nói đó là: “Chị
Thiện. Chị có biết em yêu chị nhiều lắm
không !” Chị ấy sẽ mở tròn xoe
hai mắt nhìn tôi kinh ngạc hay chị ấy
thích thú nhìn tôi một cách hiền
dịu ? Tình yêu ấy do từ đâu mà
có, quả tình tôi không biết, nó bắt
nguồn từ lòng biết ơn sâu xa lần
đầu tiên tôi gặp chị, từ máu mủ
tình thâm vì chị là con gái của cậu
tôi, hay tình cảm dại khờ bắt nguồn
từ đáy lòng tôi khi tôi mới lớn,
từ tình cảm lãng mạn của Ngọc
đối với chú tiểu Lan trong “Hồn
Bướm Mơ Tiên”, mà quả thật
tôi là người rất lãng mạn, mê
đọc những tiểu thuyết lãng mạn, một
thứ lãng mạn kín đáo như của
Loan và Dũng trong “Đôi Bạn”.
Tôi biết thế
là hết. Tôi sẽ không bao giờ có
cơ hội để nói với chị một lời
tôi từng ấp ủ qua bấy nhiêu năm, muốn
nói mà không nói được.
Ở nơi phương
trời xa thẳm nầy, tóc tôi đã bạc.
Và tôi nghĩ tới phương trời xa thẳm
bên kia, xa nửa vòng trái đất, chị
Thiện tôi còn hay mất ? Có bao giờ chị
ngờ rằng chị có một đứa em, một
đứa em có một tâm hồn đa cảm,
đa tình, lãng mạn, đã bao lần nghĩ
về chị, muốn nói với chị một
câu nói, dù chị có chấp nhận
câu nói đó hay không, nhưng chắc chắn
nó sẽ làm khuấy động tâm hồn
hiền từ, mộc mạc của chị. Điều ấy
không may cho tôi, nhưng rõ ràng rất may
cho chị.
Dù sao, hình ảnh
chị vẫn còn đây, dù hình ảnh ấy
qua chiếc áo lá quê mùa hay chiếc
áo lam gặp chị lần chót ở chùa
Sư Nữ. Hình ảnh chị vẫn còn
nguyên vẹn trong lòng tôi, giống như
hình ảnh thân yêu của làng ngoại
tôi ở bên kia sông Thạch Hãn.
Hoàng
Long Hải
(1) Thời Việt Nam Cộng
Hòa, gọi là đường Lê Văn Duyệt
(2) Đức Khổng Tử
và 72 môn đệ của Ngàị
(3) Tôi có dịch
đoạn nói về Trận Thanh Hương (The
Street Without Joys), đã in trong Viết Về Huế - tập
1
(4) Làng Ái Tử
chính là nơi của câu ca dao:
Mẹ
thương con ra ngồi cầu Ái Tử
Gái trông
chồng lên đứng núi Vọng Phu.
Câu nầy có một
cách chơi chữ: Thương con, tiếng Hán
Việt có nghĩa là Ái (yêu,
thương); Tử (con). Trông Chồng có nghĩa
là Vọng (trông), Phu (Chồng)
Khi vào Đằng
Trong (sau nầy mới gọi là xứ Đằng
Trong), quân binh đi ngang một cái truông
cát lớn nên ai nấy khát nước. Người dân ở đây
đem nước ra dâng cho Nguyễn Hoàng. Cậu
của của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Ư Kỷ
đi theo, thấy vậy bèn nói: “Nay mới
đấn trấn mà dân đem nước ra
dâng. Nước đó là nước, là
điềm trời cho vậy.” Nguyễn Hoàng
bèn dóng quân ở đây, làng Ái
Tử. Sử gọi là Dinh Cát (Vì ở giữa
truông cát ?). (Đọc “Việt Sử Khảo
Lược” của Tôn Thất Dương Kỵ).
Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ
hai, đây là căn cứ lớn của quân
đội Hoa Kỳ.
Xin xem bài “Cụ Đốc Hy”, cùng
tác giả, in trong “Quê Ngoại”
(6) Đem đầu ra mà thú tội với
Tây vì đã tham gia kháng chiến
giành độc lập.
(7) Cậu Hai Phố là em ruột “Cụ
Đốc Hy”. Tôi không rõ Cậu Hai Phố
làm gì, chỉ thấy Cậu vui chơi nhởn
nhơ, nổi tiếng có đức hạnh, là
thân hào nhân sĩ của tỉnh. Các anh
con trai của Cậu học giỏi, các chị con của
Cậu đều nổi tiếng đẹp, nhất
là chị Bé Em (Xin xem: Quảng Trị, ngày
xưa Hoàng thị… - cùng tác giả).
Năm 1971, Cậu Hai Phố muốn ra ứng cử
dân biểu quốc hội đơn vị Quảng Trị.
Nghe lời anh tôi nói rằng tôi có một
người bạn thân đang làm việc tại
phủ tổng thống, nên Cậu vào Saigon, đến
thăm tôi và nhờ tôi giới thiệu với
người bạn để giúp Cậu đắc cử.
Tôi đưa Cậu tôi đến gặp người
bạn ấy. Người bạn ấy nói với cậu
tôi: “Việc chọn người đắc cử
giao cho tỉnh trưởng địa phương quyết
định. Nếu Cậu quen với đại tá
Nguyễn Ấm, tỉnh trưởng ngoài ấy
thì hy vọng được.” Cậu Hai vội
vàng nói: “Ai chớ đại tá Ấm
thì tôi quen, tôi nói được.”
Nghe Cậu Hai trả lời, tôi thất vọng.
Ông Cậu tôi thật thà quá. Người
bạn tôi nói thế chỉ là một
cách “đẩy cơ” mà thôi. Trong
đổ ra ngoài, ngoài đổ cho trong, thế
là xong. Sao Cậu tôi thật thà vậy ? Mấy
ngày sau, tôi gọi điện thoại trách
khéo người bạn. Anh ấy giải thích:
“Ngoài ấy khó lắm. Đại Việt,
Việt Quốc, Thiên Chúa Giáo, Phật
giáo tranh nhau dữ lắm. Đúng là trung
ương muốn tránh để cho địa
phương dàn xếp giữa họ với nhau. Nếu
ông Cậu không có thế lực nào ở
đằng sau, làm sao qua được. H. nên
khuyên ông Cậu rút lui đi”. Nghe lời
người bạn, tôi gọi điện thoại
nói lại với anh tôi như thế.
(Bai Chuyen)