Chút ơn nghĩa cuối đời
(Huy Phương)
Một người
chẳng may rơi xuống giếng sâu, có người
trông thấy vội hô hoán lên:
“Có người rơi xuống giếng !”
Xóm giềng kẻ đem thang, người đem
giây xúm lại cố cứu người kia
lên khỏi miệng giếng. Ra khỏi chỗ hiểm
nghèo, thoát chết, người kia chỉ thấy
những người chung quanh đang cầm các dụng
cụ để cấp cứu, mà không biết
đến người đầu tiên đã
phát giác ra việc y bị rơi xuống giếng
sâu, thậm chí y chẳng phản ứng gì
chứng tỏ y vừa thoát khỏi cảnh hiểm
nghèo, được an toàn rồi, y cắm đầu
đi thẳng. Gần đây, luận về một sự
giúp đỡ trong quá khứ cho những người
tù chính trị, người ta đã phân
tích, đem sợi tóc chẻ làm tư để
phủ nhận công ơn những ai đã
giúp đỡ mình, dù ít dù nhiều,
dù bằng cách này hay cách khác. Ðể
khỏi phải mang ơn hay tránh mặc cảm
là kẻ vô ơn, người ta phải tự lừa
dối cả với chính mình bằng cách vẽ
lại hình ảnh người ơn một cách
xấu xa, bôi xấu đến mức tàn tệ.
Khi xúc động với lòng biết ơn,
người ta vẽ nên hình ảnh bà
Tiên nhiệm mầu chan chứa lòng bác
ái, khi bất bình người ta sẵn sàng
tô vẽ hình ảnh ấy thành một mụ
phù thủy quái ác. Thật ra, chúng ta
không phải nhất thiết làm những chuyện
như vậy, vì vào những ngày xa xưa ấy,
những người bỏ công sức, bằng
cách này hay cách khác để tìm
cách cứu vớt những người lâm nạn,
không có ai mong mỏi sẽ có một
ngày nào đó được đền
đáp lại, dù chỉ là một câu
cám ơn đầu lưỡi.
Tôi còn nhớ
chuyện có người cho tôi một cục kẹo
nhỏ khoảng ba mươi năm về trước.
Sau ba năm ở trại Cẩm Nhân, Yên Bái,
vào giữa năm 1978, từ dưới sự quản
lý của bộ đội Việt Cộng, nhóm
tù miền Nam của tôi được chuyển
về Bắc Thái, đặt dưới sự canh
gác của bọn công an áo vàng. Mấy
năm đầu tiên trên đất Việt Bắc,
giữa núi rừng lam sơn chướng khí,
chúng tôi tưởng chừng như đã sức
tàn lực kiệt. Trong trại giam công an, giữa
bốn bức tường cao với những vọng
gác, dây kẽm gai, ngày làm lụng vất
vả như trâu cày, tối về còn bị
ngồi lên đồng, kiểm thảo, phê
bình, với cơn rét đậm cùng với
cái bụng đói triền miên, những
người tù miền Nam bắt đầu thấy
tuyệt vọng khi nghĩ đến một ngày về.
Thời gian ấy, một hạt muối cũng thiếu,
đừng nói gì đến hạt đường,
và cả bọn như những thây người
xanh xao, nhợt nhạt, những con ma đói dật dờ.
Giữa lúc ấy,
một người bạn cùng đội tù
có vợ ra thăm nuôi. Ðây là một
tin vui cho cả trại tù, vì như thế
thì có thể một chiến dịch cho gia
đình tù thăm nuôi để cứu sống
bọn tù, nhưng không phải ai cũng
được hưởng thứ ân huệ ấy,
vì hoàn cảnh mỗi người mỗi
khác. Chiều hôm ấy, trong giờ ăn tối,
với lưng chén bánh canh bột mì
lõng bõng như mọi ngày, người bạn
tù hạnh phúc mới được thăm
nuôi, phân phát cho anh em trong đội tù, mỗi
người một chiếc kẹo. Chiếc kẹo
màu nâu đen, nhỏ bằng đầu ngón
tay út, được bọc bằng một mảnh
giấy trong. Tôi cẩn thận giữ nó trong
túi áo, sau khi dùng xong phần ăn, rửa
chén muỗng, súc miệng rồi mới tìm
một góc hè, ngồi xuống để làm
cái công việc trang trọng là thưởng
thức một cục kẹo nhỏ sau gần ba năm
tù đói khát. Viên kẹo ngọt từ
từ tan trong miệng, đưa chất ngọt theo
nước bọt xuống cổ họng, như một
vài giọt nước rơi xuống trên mảnh
đất cát khô cằn. Khi viên kẹo tan hết
trong miệng, thì nước mắt tôi cũng
lưng tròng. Nghĩ đến cảnh ngộ
lúc bấy giờ, không thể nào tôi
ngăn được chút ý nghĩ xót xa về
tấm thân tù đày phiêu bạt. Ba
mươi năm rồi, từ buổi chiều hôm ấy
ở trại tù Bắc Thái tôi vẫn
còn nhớ đến viên kẹo nhỏ như mới
hôm qua, cũng như không thể quên tên
người bạn đã cho tôi viên kẹo: Tống Hữu Kinh.
Bất cứ
người bạn tù nào khi có quà
thăm nuôi chắc chắn không thể nhớ rằng
đã cho ai một cục kẹo vào một
trường hợp như thế. Người cho
không thể nhớ, nhưng người nhận
thì khó quên. Bây giờ trên đất
nước này, tôi có thể mua cả một
tấn đường hay một xe tải kẹo
bánh, nhưng tôi không thể dùng bất cứ
thứ của cải nào để trả ơn lại
cho người bạn tù năm xưa. Nhiều
người quan niệm rằng không cần phải
mang ơn người chỉ cho ta một cục kẹo,
chỉ vì lý do cái vật ấy quá nhỏ.
Tôi nghĩ
không một ai trong chúng tôi, một người
Việt Nam đã bỏ xứ ra đi vì chế
độ Cộng Sản, về thăm thủ đô
Hoa Thịnh Ðốn của nước Mỹ mà
không bỏ chút thời giờ ghé thăm
“Bức Tường Ðá Ðen” khắc
tên 58,000 người chiến binh Hoa Kỳ đã
hy sinh nơi chiến trường xa xôi ấy, nơi
vùng đất mà chúng tôi đã từ
đó ra đi vì cuộc chiến bất
thành, nơi mà “những kẻ xấu
đã thắng trận” (the wrong guys won !) Tôi
không nhớ rõ là tôi đã đến
đây bao nhiêu lần, mỗi lần như thế,
nhìn hình ảnh của chính mình phản
chiếu trong bức tường đá đen, chi
chít những dòng tên họ xa lạ, tôi lại
thấy ngậm ngùi.
Tôi có thể
biết tên một vài người bạn Mỹ
đã được khắc trên bức tường
đá đen ấy, nhưng con số không
quá mấy đầu ngón tay. Ví như
ngày trước, người thanh niên phi công
Hoa Kỳ mang tên John McCain gãy cánh trên
vùng trời Bắc Việt, chết vì nhiệm vụ
mà nước Mỹ đã giao phó cho
ông, tên ông được khắc trên bức
tường đá đen, thì tôi cũng
không biết hay không để ý ông
là ai ? Không như chúng tôi, những
người tù miền Nam, ông đã trở về,
bước trên thảm đỏ, dù chỉ
là một anh hùng chiến bại và
đã gầy dựng lại cuộc đời tốt
đẹp vì ông còn có quê
hương và đất nước của ông.
Ông đã chiến đấu cho đất nước
của tôi, ông đã trải qua những
ngày tủi nhục đọa đày trong
nhà tù gian ác nhất của thế giới.
Gia đình ông cũng ly tán như những gia
đình ly tán của anh em chúng tôi, phải
chăng vì vậy mà ông cũng thấy chạnh
lòng khi nghĩ đến những người
“đồng hội, đồng thuyền”.
Chọn một con
đường khác ngoài con đường phục
vụ tổ quốc của ông bằng công trận,
ông đã thật không quên đến
chúng tôi ngày ấy đang ở trong nhà
tù, vì biết đến hoàn cảnh thất
trận, tù đày của những người
lính như chúng tôi, mà bây giờ sau
lưng chúng tôi không còn gì nữa. Chúng
tôi không quy trách nhiệm cho ai, chỉ biết
đến tấm lòng bao dung của một đất
nước và của những con người tử tế
như ông. Vì vậy mà hôm nay chúng
tôi hiện diện nơi đây, đã
“xin nhận nơi này làm quê
hương.”
Tuy mang quốc tịch
Hoa Kỳ, chúng tôi không phải là người
Mỹ muốn luận về thời cuộc, về khả
năng lãnh đạo, về những gì đang
xảy ra trên sân khấu thế giới và
trong hậu trường chính trị của nước
Mỹ. Có thể tôi đã nghĩ về
ông bằng cảm tính của một con người
bình thường của một người
đã mang ơn ông. Có thể bây giờ
thì mọi sự đã an bài, lá phiếu
của tôi bầu cho ông chỉ là một giọt
nước trong đại dương, không có ảnh
hưởng gì đến đại cuộc.
Không bầu cho ông, chẳng ai bắt lỗi
tôi, nhưng tôi chưa bao giờ muốn trở
thành một kẻ vô ơn và trong lòng
không thấy sự bình yên.
Tôi chính
là người đã rơi xuống cái giếng
sâu kia, tôi không biết rõ ông là
người đã la lên tiếng gọi đầu
tiên để người ta xúm lại cứu
tôi hay ông là người đã bỏ chiếc
thang dây xuống. Bằng cách nào thì
tôi cũng không được phép quên
ơn ông. Tôi còn nhớ có người
đã cho tôi một cục kẹo nhỏ vào
một buổi chiều đói khát tận
cùng trong một trại tù ở Việt Bắc,
lẽ nào tôi quên được ông
và đất nước của ông đã cho
tôi có được cuộc sống hôm nay.
Người ta
đang kêu gọi xóa bỏ hận thù, điều
đó tôi thật chưa làm được,
nhưng trong xã hội loài người này,
tôi chưa thấy ai kêu gọi xóa bỏ những
điều ân nghĩa.
HUY PHƯƠNG
(Doanh Doanh sưu tầm và
chuyển)