CHIẾC LON
“GÔ”
(HUY PHƯƠNG)
Tôi đã lang thang trên “net” chiều
nay nhưng không thể nào tìm ra hình ảnh
của chiếc lon “gô”, người bạn
ngày nào của tôi. Bao bì của
các món hàng sản xuất mỗi ngày mỗi
tân tiến, mới lạ, đẹp đẽ
và gọn nhẹ. Bây giờ người ta
đựng sữa bột trong những bao bằng giấy
dày hoặc bằng thứ kim loại
mỏng, không như bằng chiếc hộp nhôm
không rỉ sét, dày dặn như cái thời
xa xưa đó. Người vẽ kiểu của chiếc
lon “gô” ngày nào chắc cũng
đã ra người thiên cổ, không còn
để cái đám tù tập trung trong
các trại tù Cộng Sản sau này gặp gỡ
để nói một lời cám ơn về một
thứ đồ dùng, một bao bì mà sau khi
dùng sản phẩm, có thể vứt bỏ,
nó lại được dùng như một vật
tiện dụng và hữu ích qua nhiều năm
tháng.
Loại sữa Guigoz của Hòa Lan
được nhập cảng vào Việt Nam nhiều nhất là sau khi
người Pháp trở lại Việt Nam vào khoảng
năm 1956. Vào thời ấy lon sữa bột
Guigoz không lấy gì làm đắt. Một
công chức trung bình ở miền Nam cũng
có thể nuôi con bằng loại sữa bột
này. Có hai loại sữa Guigoz, loại
trắng cho trẻ sơ sinh, và loại màu
vàng cho tuổi từ một năm trở đi.
Loại sữa bột này phổ biến đến nỗi
hầu như gia đình trung lưu nào cũng
nuôi con bằng sữa Guigoz, và những chiếc
lon nhôm, dày dặn, với dung tích 0.75
lít, có chiều cao 18cm, đường kính
8cm, không rỉ sét này thường được
các bà nội trợ cất giữ để
đựng thực phẩm ở trong bếp, trừ muối,
nó có thể đựng đường, ớt,
tiêu hành hay các thức ăn khô. Tuy chiếc lon Guigoz tiện dụng nhưng thật
ra nó không có giá trị gì, nó
có thể ra nằm ngoài đống rác.
Từ năm 1965 trở về sau, miền Nam đã nhập
cảng nhiều loại sữa bột khác dành
cho trẻ em, nhưng chiếc lon sữa Guigoz vẫn
còn tồn tại trong hầu hết gia đình
vì nó bền, chắc, khó móp méo hay
hư hỏng.
Thế mà chiếc lon Guigoz đó lại trở
thành người bạn thân thiết từ
mùa hè năm 1975 khi tôi phải giã từ
quân đội, bỏ lại vợ con và
thành phố yêu đấu để trình diện
đi tù, làm cái công việc của một
người lính thất trận. Thoạt đầu
chiếc lon chỉ mang theo mớ thức ăn khô
dùng tạm cho vài ngày, nhưng về sau khi
thức ăn đã hết, chiếc lon kia đã
đổi chức năng để từ đây
gánh vác một phần tháng ngày gian khổ
cho tôi. Về sau khi thấy tôi không còn hy
vọng gì quay trở lại với gia đình
trong một thời gian ngắn, chiếc lon sữa Guigoz
kia đã không rời tôi nửa bước
như một người bạn tri kỷ có thể
chia ngọt xẻ bùi với nhau, khi với một nắm
rau bên vệ đường, khi với một con
nhái bén, có khi với một mẩu sắn
thừa sau ngày thu hoạch còn sót lại
trong đám đất bị cày xới.
Có khi chiếc lon ấy trở thành một
bình trà với những đọt chè xanh,
đậm đà hơn một tuần Thiết Quan
Âm thời phong lưu hay mở ra một ngụm
cà phê sảng khoái đánh lừa khứu
giác với những hạt bo bo cùng với mấy
hạt ngô rang cháy. Nó cũng trở
thành người bạn mỗi sáng với những
công việc vệ sinh thường nhật bên
“lán” tù, và cũng tội nghiệp
cho chúng tôi trong một miền Bắc không
có thừa lấy một manh giấy báo hay một
mẩu giẻ rách, nó đã theo những
người tù mỗi lần vì nhu cầu phải
đi thăm .. “lăng
Bác”.
Ngày xưa chiếc lon kia mang một cái
tên ngoại quốc khá đẹp từ xứ
Hòa Lan có nhiều nhà máy xay gió, những
cánh đồng cỏ bất tận và những
đàn bò bình yên, đến miền Nam
với hình dáng tròn trịa, mới mẻ,
nay nó mang một cái tên xấu xí trần
tục trong một xã hội đói nghèo, lạc
hậu. Nó là “gô”, là “cống”
hay có người gọi nó là “hăng
gô” (?), những cái tên rất khó bề
giải thích. Nó dần dần trở thành
đen điu, xấu xí, hèn mọn, móp
méo qua những lần bị nung nóng trên bếp
lửa của trại tù hay trên đám cỏ
khô giữa cánh rừng bạt ngàn hay bên
dòng suối nhỏ trong những buổi trưa, để
thêm một chút “cải thiện” với
nắm rau “tàu bay” hay một mẩu khoai
mài. Những ngày có thăm nuôi, nó cũng
chắt chiu nắm mì gói hay chút ruốc thịt
mang cho “sang cả” thêm cho bữa ăn khốn khổ của người
tù. Những lúc chẳng có
gì, một gô nước lã cũng đầy
bụng.
Chiếc lon gô ngày nay đã đen điu hình dáng nhưng chưa bao giờ
chịu để mình bẩn thỉu, nó
đã nhiều lần được kỳ cọ
như chủ nhân đã kỳ cọ cái
thân thể gầy còm khốn khổ của
người tù dưới suối sau một ngày
kiệt sức, vắt mồ hôi. Đêm về,
chiếc lon kia cũng lặng lẽ ở
trên đầu nằm cùng với mớ chăn
chiếu lẫn lộn với những mảnh nhung y sờn
rách, bạc màu, để sáng mai thức dậy
trong tiếng kẻng tù gắt gỏng.
Chưa có một vật dụng nào thiết
thân với người tù như cái lon
“gô” đen điu ấy. Bộ
áo quần tù có thể thay đổi,
đôi dép có thể mòn vẹt, nhưng
chiếc lon “gô” đã bền bỉ với
thể chất cũng như tấm lòng với
người tù qua những đoạn đường
gian khổ, những ngày lên nương xuống rẫy,
những sáng mùa đông
giá buốt cũng như những trưa hè đổ
lửa. Nó gần gũi, khắn
khít không rời người tù đi
đâu nửa bước.
Thế mà …
Như những ông già H.O. trên đất
Mỹ, tôi thường đẩy xe
cho vợ đi chợ mua thức ăn. Những hàng
hóa, thực phẩm bày biện trong những
ngôi chợ to lớn, chỉ gây ngạc nhiên
cho tôi lúc đầu tiên mới đặt
chân đến Mỹ cách đây hàng chục
năm, bây giờ trở nên quen thuộc và
thường tình đến nhàm chán. Những
kệ hàng bán đầy khoai lang đủ loại
hay những đống khoai mì đầy ắp, những
mớ cải xanh, những bó rau muống tươi tắn,
những củ su hào mập mạp … không hề
nhắc nhở hay cho tôi một suy nghĩ nào về
những tháng ngày tù tội, thiếu thốn
mà những củ khoai, những nắm rau xanh
đó như một nỗi mơ ước thèm
thuồng thường nhật của một người
tù.
Nhưng có một buổi nọ, khi đẩy
chiếc xe đi chợ đến
bên hàng bày bán khoai mì, không hiểu
sao lần này tôi dừng lại, cổ họng
như nghẹn ngào, những giọt nước mắt
như muốn trào ra. Trong một
thoáng tôi bỗng nhớ lại hình ảnh của
nồi sắn luộc không bóc vỏ với những
mẩu sắn rơi vải nhuộm một màu
tím sẫm, hình ảnh của người bạn
tù say sắn, té từ chỗ ngủ ở tầng
trên xuống nền gạch và những tiếng
la cầu cứu trong đêm. Những củ sắn
nằm trên kệ hàng ở đây, là một
món ăn chơi của những
người no đủ, không hề có một
giá trị gì với đời sống của một
con người bình thường này trên mảnh
đất giàu có như nước Mỹ.
Chúng ta thật đã nhàm chán với
những bữa tiệc tùng sang trọng, mỗi tuần
không dám ăn tới ba quả trứng gà, bắt
đầu thấy sợ thịt, không bao giờ đụng
đến bơ, sữa hay phó mát. Phần
tôi, đã nhiều lần đi qua những
ngôi chợ khác nhau mà lòng thấy dửng
dưng trước những món thực phẩm tầm
thường như nhìn một vật xa lạ
chưa lần nào gặp gỡ hay gắn bó trong
cuộc đời mình. Phải chăng những vật
hèn mọn này, những củ khoai lang, những
miếng sắn luộc này đã từng ám
ảnh chúng ta trong giấc ngủ ngày nào ?
Và tôi nhớ ra một điều, khi
được ra khỏi nhà tù, tôi
đã quên hẳn và vất bỏ ở
xó xỉnh nào đó cái lon
“gô” đen đúa, người bạn
thân thiết của những tháng ngày tù
tội của tôi. Tôi đã đi một
vòng khá xa, từ Bắc vào Nam, từ
Tây sang Đông, qua bao nhiêu cánh rừng, qua
bao nhiêu eo biển, bỏ lại sau lưng quê
hương và quá khứ của tôi.
Đôi khi tôi cũng đã quên
tôi, nói gì
đến những vật tầm thường hèn mọn
như thế !
Huy Phương
9/2007
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)