"Ngụy" !
(Tiểu Tử)
Trong ngôn ngữ thông thường miền Nam
Việt Nam
trước tháng tư 1975, tiếng "ngụy"
- nghĩa là "giả" - ít thấy có
ai dùng tới. Cái gì không phải thứ
thiệt, không phải thứ "chánh cống",
không phải thứ "có cầu chứng tại
tòa"... là người ta gọi hoạch tẹt
là "đồ giả", chớ không ai gọi
là "đồ ngụy" hết. Ví dụ
như rượu giả, thuốc giả, vú giả,
bạc giả ... vv. Bởi vì từ ngữ hồi
đó rất ... thật !
Sau tháng tư 1975, tiếng “ngụy”
đã theo gót ... dép râu (Xin lỗi ! Chỗ
này văn chương nghe chõi lỗ tai một
chút, nhưng rất ... tả chân. Không thể
viết "theo gót giày" như xưa nay
thường viết, vì đối tượng ở
đây toàn mang dép râu cả !) quân
nón cối và quân mũ tai bèo vào Nam
làm cách mạng...
Sau biến cố, toàn dân miền Nam đều
phải đi “học tập” ba hôm. Chính
trong ba hôm đó người ta mới nghe lần
đầu tiên tiếng "ngụy". Và nghe
... đầy lỗ tai !
Vậy là đầu hôm sớm mai, tiếng
“ngụy” được ... nhét vào
ngôn ngữ miền Nam một cách "ngang
xương", không cần … trưng cầu
dân ý ! Mới đầu nghe lạ hoắc,
không hiểu ý nghĩa sâu đậm của
nó. Cũng chẳng có ai giải thích.
Mà ví dụ có ai to gan lớn mật đặt
câu hỏi thì cán bộ cũng chỉ giải
thích ... ngang như cua thôi !
Thành ra nhân dân miền Nam hiểu tiếng
"ngụy" một cách rất ... tự do,
và sử dụng tiếng "ngụy" rất... rộng
rãi (Được "giải phóng", có
khác !). Thôi thì cái gì của miền
Nam
cũng đều biến thành "ngụy"
ráo. Để phân biệt với "cách mạng"
!.. Thằng ngụy, vợ ngụy, con ngụy, lính ngụy,
chánh quyền ngụy, cơ sở ngụy, xí
nghiệp ngụy, công nhân ngụy, "hàm-bà-lằng"
ngụy ... Và người ta nghĩ một cách rất
đơn giản, rất thật thà: "Hễ thấy
không có đóng con dấu ngôi sao đỏ
thì cứ xếp vào đồ ngụy, là
ăn chắc !".
Thật ra, khi dán cái nhãn "ngụy"
lên miền Nam, "Đảng và Nhà Nước"
muốn nhân dân - chủ yếu là nhân
dân miền Bắc - hiểu theo định nghĩa
"ngụy" là giả - giả nhân giả nghĩa,
giả đạo đức, giả yêu nước
thương dân - "ngụy" là đoạt của
người ta mà nói là của mình,
là bịp, là láo, là phiến loạn...
Về sau, khi nhân dân cả hai miền đều
... mở mắt, tiếng “ngụy” ít thấy
dùng tới. Nhưng bây giờ thì mọi
người đều nhận ra ai mới đúng
là ngụy. Lớp ngụy trang bị rơi xuống,
những ngụy ngôn bị vạch trần, thì
chân tướng ngụy lòi ra rõ rệt,
đến người mù cũng phải thấy !
Viết dài dòng để ... “đả
thông tư tưởng” trước khi vào
chuyện.
… Ông H là thiếu tá quân đội
Việt Nam Cộng Hòa. Ông làm việc ở Tổng
tham mưu. Ông thuộc gia đình trung lưu. Hồi
1945, cha và anh của ông đi kháng chiến rồi
đi luôn ra Bắc. Từ đó, không
được tin tức gì hết. Mẹ của
ông là giáo viên tiểu học, xem việc
dạy dỗ trẻ con là một thiên chức.
Bà thường nhắc về người cha và
người anh vắng mặt, nhứt là người
anh với những kỷ niệm đẹp của thời
mà hai anh em còn ở chung với nhau: "Anh Hai của
con thương con lắm. Đi học về là cởi
trần rồi cõng con chạy cà bồng cà bồng
quanh sân vừa chạy vừa hí rân như ngựa
làm cho con cười hắc hắc. Mà con
thì hay nhõng nhẽo với anh Hai con, đi
đâu cũng bắt nó cõng hết. Còn
khi nào con đòi cái gì không
được, con hay vừa khóc vừa la để
ba tưởng là anh Hai chọc con, ba rầy ảnh !
Tội nghiệp ! Những lúc thấy con sắp sửa
làm trận như vậy, anh Hai con thường
đưa đầu biểu con đánh nó đi
chớ đừng khóc la, sợ ba rầy !". Rồi
bà kết luận: "Tánh tình nó tốt
lắm !".
Ông lớn lên trong vòng tay người mẹ,
được giáo dục bằng tình
thương, xem gia đình là căn bản, lấy
đạo đức làm phương châm. Và
ông giữ mãi trong lòng sự mến mộ
"người anh Hai lúc nào cũng làm vui
lòng em, lo lắng cho em, bảo vệ em".
Mãi đến năm 1973, mới được
tin qua một người bà con rằng cha mất
đã lâu và người anh bây giờ
là tướng của "ngoài đó".
Thật là bàng hoàng. Mẹ ông khóc hết
nước mắt. Thời gian sau, bà nói: “Mẹ
chỉ mong cho mau hết giặc, để anh em con về
sống bên mẹ yên vui như ngày xưa. Chừng
đó, mẹ mãn nguyện để theo ông
theo bà...". Mẹ ông qua đời vào giữa
năm 1974, chưa kịp thấy cảnh “hết giặc”
ra làm sao và chưa kịp gặp lại đứa
con làm tướng ...
... Mấy hôm sau ngày 30 tháng tư 1975,
ông tướng nhờ người bà con
đưa lại nhà ông H. Xa cách đã
ba mươi năm, nhưng hai anh em vẫn nhìn ra
được nhau. Bởi vì họ giống nhau
như đúc. Sau mấy giây ngỡ ngàng, họ
sà vào ôm lấy nhau siết chặt. Cả
hai đều không cầm được nước mắt.
Bà H và bốn đứa con - ba trai một
gái, đã lớn hết, hai đứa đại
học và hai đứa trung học cấp hai - đứng
nhìn cảnh hai anh em ôm nhau, cũng bồi hồi
xúc động ...
Sau đó là bữa cơm gia đình
để hai anh em kể cho nhau nghe những biến
thiên của đời mình, của thời cuộc.
Tiếp theo là ông tướng mang hành trang lại
ở với gia đình ông H, để có anh
có em.
Ông bà H
có hai cái nhà. Cái mà ông bà
đang ở với hai con học trung học, là loại
vi-la lầu có sân lót gạch và vườn
cây kiểng hồ cá trang trí theo kiểu Nhựt.
Nhà này do ông bà tự cất lấy hồi
thời các con còn nhỏ. Về sau, ông
được thuyên chuyển ra miền Trung một thời
gian. Ông đem hết gia đình ra ngoài
đó, để nhà cho Mỹ mướn. Nhờ
vậy, mấy năm sau, ông mua thêm một căn
phố nhỏ cho hai đứa con trai lớn ở, khi
chúng nó vừa vào đại học.
Sau khi đi xem
nhà, ông anh bảo:
- To thế thì ở làm gì cho hết ?
(Bây giờ ông anh nói pha giọng Bắc rất
nhiều). Nguyên cái buồng ngủ thôi cũng
chứa cả một hộ bốn nhăm người
đấy !
Hôm sau, ông H được người anh
khuyên:
- Chú làm cái vườn như thế
này là phí đất. Đào lên
đi để trồng trọt khoai bắp cho các
cháu có mà ăn. Phải biết tăng gia chứ
!
Mới đầu, ông hơi phật ý.
Nhưng, khi nhìn sang hàng xóm thấy nhà
nào cũng đào cũng xới kể cả dải
đất hẹp té nằm dọc theo chân tường
rào phía ngoài đường, ông nghĩ:
"Mình cũng phải làm như thiên hạ,
cho yên thân". Vậy là cha con ông hè
hụi đập nạy cạy khượi, gạch,
bê-tông, hồ cá ... cho lòi đất rồi
trỉa đậu trồng mì ! Khu vườn Nhưt
Bổn mà ông Bà H đã tự tay xây
đắp, bây giờ tan hoang lồi lõm giống
như bãi đổ ... xà bần. Nhà ông
H bây giờ mới thật sự mang nét cách
mạng !
Ông anh - tên R - làm việc ở
đâu, hỏi không bao giờ nói. Chỉ thấy
mỗi sáng có xe của cơ quan đến
rước, chiều đưa về. Ông H, sau khi
trình diện khai lý lịch , tối ngày ngồi
nghe tin tức qua ra-đi-ô. Bà H không dám nấu
nướng trong bếp bằng lò ga, bà sợ
làm như vậy nó ... ngụy quá đi,
nên bà dựng ở hàng ba mấy cục gạch
rồi nấu bằng củi bằng lá khô ...
Bà kê cạnh đó một cái bàn thấp
để chén đũa mắm muối, còn nồi
niêu dao thớt thì cứ bỏ nằm lỏng chỏng
dưới đất bên cái thau nhôm lớn
đựng nước để dùng cho việc nấu
nướng rửa ráy. Nước lấy từ ống
cao su trước đây dùng tưới vườn.
Nước dơ thì cứ tạt ... cha nó ra
sân. Bà H ngồi chồm hổm làm bếp, chổng
khu thổi lửa khói bay um tùm làm
đôi khi bà nhớ thời thơ ấu - bốn
mươi mấy năm về trước - hồi ở
dưới quê với bà ngoại, bà hay
nhìn bà ngoại nấu cơm như bà
làm bây giờ. Chỉ khác là hồi
đó chưa có cách mạng ! Ông anh
có vẻ hài lòng về tác phong của
bà H, nên khen: "Cô thật là sớm
giác ngộ !".
Một hôm, đài phát thanh gọi
các sĩ quan ngụy đi trình diện học tập.
Và nói rõ: "Đem theo tiền ăn cho một
tháng”. Ông H lo lắng, hỏi ý kiến
ông anh thì được trả lời:
- Chú cứ yên tâm đi học tập.
Anh bảo đảm không sao hết.
Vậy là ông H hun vợ con, xách
ba-lô lên đường, còn dặn:
- Ở nhà có bác Hai. Mẹ con bây cần
gì thì nhờ bác, nghen.
... Một tháng sau, không thấy ông về,
bà H hỏi ông anh thì được trấn
an một cách rất bình thản:
- Cô yên tâm. Vài hôm là về
thôi !
Cứ thế, vài hôm rồi vài hôm
... dài dài... Bà H nóng lòng, chạy
đi gặp mấy bà bạn cũng là vợ sĩ
quan, mới hay rằng có thể chồng đã bị
chở đi luôn ra ngoài Bắc. Bà lau nước
mắt, về quây quần với mấy con, ngồi
đợi ông anh. Gặp ông, bà mếu
máo:
- Họ chở nhà tôi đi mất rồi
...
- Đi đâu mà mất ? Còn tập
trung cải tạo ở trong Nam chứ phải biệt
xứ đâu mà mất ? Đi học tập chứ
đi tù đâu mà cô sợ.
- Nghe đồn trong trại khổ lắm. Nhờ
anh can thiệp cho nhà tôi về. Dù gì anh
cũng là tướng và cha đã hy sinh
vì cách mạng.
- Cách mạng không phải như ngụy
đâu cô ! Không có chuyện móc ngoặc
bè phái. Không có chuyện tư vị nể
nang. Luôn luôn xử sự có tình có
lý. Chú ấy cứ học tập tốt là
về ngay thôi ! Nói thế chứ ... để
tôi xem có làm gì được không.
Một hôm, ông anh họp các con ông H
lại, khuyên:
- Ba các cháu
là ngụy. Cách mạng khoan hồng gởi đi
học tập cải tạo. Ba các cháu có sớm
được trả về hay không là còn
tùy thuộc ở thái độ học tập của
ba các cháu. Và cũng tùy thuộc ở
trình độ giác ngộ cách mạng của
má các cháu và các cháu nữa.
- Vậy, mình phải
làm sao ?
- Dễ thôi !
Bác sẽ giới thiệu các cháu vào
đội thanh niên xung phong, nếu các cháu muốn
giúp ba các cháu.
- Vô đó để
làm cái gì, thưa bác ?
- Để phục vụ
nhân dân theo khả năng của mình. Nếu
các cháu có tinh thần phục vụ cao,
Nhà Nước sẽ cho điểm tốt trong việc
cứu xét trường hợp của ba các
cháu.
Sau một lúc
bàn tính, cả bọn bốn đứa đều
đồng ý ... xung phong. Bốn đứa được
thâu nhận nhưng không cùng ở chung một
đơn vị. Phân tán chúng nó ra,
cô lập từng đứa một, để dễ
theo dõi kiểm soát, tránh mầm mống phản
loạn ... Nhà Nước đi một nước cờ
thật cao !
Chúng nó
được đưa đi đào đất
đắp nền ở các vùng kinh tế mới
hay đi đào kinh làm thủy lợi. Lâu
lâu mới về thăm nhà một vài
hôm. Nhưng không bao giờ cùng về một
lúc. Và đứa nào về cũng xác
xơ hốc hác, tay chân ghẻ lở giống
như bị đi đày ! Đứa con gái
trước đây học năm thứ bảy
dương cầm ở quốc gia âm nhạc, bây
giờ tay cứng còng, không đánh nổi một
bài tầm thường của hồi đó.
Bà H nhìn các con mà đứt ruột. Cho
nên mỗi lần đứa nào về, bà cũng
chạy lo thuốc men và nấu nướng cho ăn
uống tẩm bổ. Chỉ có ông anh là
hài lòng và cho rằng đó là
thành quả tốt đẹp của lao động !
Một hôm, ông
anh bảo người em dâu:
- Bây giờ các
cháu đã có Nhà Nước lo. Cô giữ
làm gì đến hai cái nhà ? Đây
là lúc mà cô phải chứng tỏ
trình độ giác ngộ cách mạng của
mình bằng cách hiến cái nhà này
cho Nhà Nước để làm cơ quan phục
vụ nhân dân. Như vậy, chú ấy
có cơ được về sớm.
Sau vài phút suy
nghĩ, bà H chỉ bằng lòng cho Nhà Nước
mượn thôi.
- Ừ ! Thì cho
mượn cũng được, tôi nghĩ thế.
Để tôi liên hệ với các đồng
chí ấy xem sao.
Vậy là tuần lễ
sau, bà dọn về căn phố nhỏ ở
cách đó độ mười lăm phút
xe đạp, nhưng thuộc về một quận
khác. Sự chuyển hộ - nghĩa là dời chỗ
ở, địa chỉ - không gặp khó khăn,
nhờ ông anh cách mạng (Trong thời này, muốn
chuyển hộ phải làm đơn xin phép
nơi mình sắp dọn đến. Phải
“có lý do chánh đáng” và
điều này phải được chứng nhận
bởi chánh quyền nơi mình đang ở ! Khi
đã được nơi sắp dọn đến
chấp thuận - có ký tên đóng dấu
- đương sự phải vác đơn
đó về trình cho chánh quyền nơi
đang ở để ... xin phép được di
chuyển. Khi được chấp thuận - ký
tên đóng dấu - mình mới được
quyền dọn đi ! Rắc rối như vậy
nên lúc nào cũng có một sự giải
thích rất "có trình độ”:
“Đằng kia có cho anh vô thì ở đây
tôi mới cho anh ra. Chớ tôi cho anh ra mà đằng
kia không cho anh vô thì anh ... đi đâu
?”. Rõ như vậy, nhưng nhiều khi vác
đơn đến “đằng kia” trước,
thì bị từ chối và dĩ nhiên
được giải thích cũng rất
"có trình độ” không kém:
“Anh phải xin phép nơi anh đang ở trước
rồi mới đến đây sau. Anh có
được cho đi thì tôi mới nhận cho
anh đến. Chớ bảo tôi nhận cho anh đến,
trong lúc anh chưa được cho đi thì
làm sao được ? Phải có đi rồi mới
có đến chớ ! Dễ hiểu thôi !”. Cứ
lẩn quẩn loanh quanh như vậy nên việc chuyển
hộ thật là khó khăn. Trong trường hợp
chuyển từ tỉnh sang tỉnh hay từ vùng sang
vùng thì khỏi nói, thật là "trần
ai gian khổ" !).Ông tướng có "động
viên" một số đồng chí trẻ trong
cơ quan đến phụ dọn nhà cho bà H.
Và có cho mượn một chiếc xe
cam-nhông-nét - cũng của cơ quan - nên việc
dọn nhà cũng nhanh. Sau đó, ông anh cho
bà ký tên tờ ủy quyền để
ông anh thay mặt bà quản lý cái
nhà lớn mà ông đang ở. Bởi vì
bây giờ, bà đã chuyển hộ thì
mặc nhiên ông anh trở thành chủ hộ ở
ngôi nhà đó, mà muốn sử dụng cái
nhà thì phải có sự ủy quyền của
chủ nhà.
Mười lăm
ngày sau, bà H được biết là
nguyên cả tầng trệt nhà của bà
đã trở thành "tổ gạo",
còn ông anh thì vẫn ở một mình
trên lầu. Nghe nói bà tướng có
vào thăm chồng một lần, ở độ
mười lăm hôm rồi trở về Hà Nội.
Không hiểu sao ông tướng không có
đưa bà vợ lại thăm cô em dâu.
Cách mạng có khác !
Bẵng đi một thời
gian dài gần cả năm, một hôm ông anh
ghé nhà thăm bà H để báo tin
đã tìm ra trại cải tạo của người
em ở ngoài Bắc và chỉ vẽ cho bà
cách thức xin đi thăm nuôi, đường
đi nước bước, xe cộ vv... và nhứt
là những thứ cần thiết như lương
khô quần áo. Nghe như vậy, bà H
đã đoán ra phần nào đời sống
của chồng ở ngoài đó, nên bà
rớt nước mắt hỏi:
- Sao trước
đây anh không nói rõ để tôi lo
cho nhà tôi có đầy đủ phải
hơn không ?
- Chuyện Nhà Nước,
đâu nói ra được. Cô phải hiểu
như thế chứ !
- Cái gì cũng
che đậy. Cái gì cũng giấu giếm.
Nhưng lần hồi thiên hạ đều biết hết.
Bộ anh tưởng thiên hạ đui sao ?
Đến đây bỗng
nghe tiếng bà hàng xóm la lớn: "Đi
đâu đó nữa ? Mấy bữa nay tao
nói mầy kê lại giùm mấy ông
Táo kẻo mấy ổng sụm xuống thì
không còn khỉ gì để nấu nướng
... mà mầy cứ ăn rồi là xách
đít đi hà !”. Giọng người con
trai: “Bộ má tưởng con đi chơi hả
?”. Giọng bà hàng xóm: "Chớ đi
đâu mà ngày nào cũng đi, mầy
nói tao nghe coi !". Giọng người con, có vẻ
hãnh diện, nói rời ra từng tiếng:
“Con-đi-phục-vụ-nhân-dân !”. Giọng
bà hàng xóm, tức tối: "Phục vụ
nhân dân ! Phục vụ nhân dân ! Con
gái mẹ mầy cũng là nhân dân
đây nè ! Mầy phục vụ cho nó đi
! Kẻo không chổi chà nó đơm lên
đầu bây giờ !". Ngừng một lúc, lại
nói: "Cha ... Lúc này nói giọng
cách mạng quá há ! Phải mà ! Con mẹ
buôn gánh bán bưng này hăm mấy
năm nay nó kềm kẹp mầy quá mà !
Nó nhét cho mầy ăn để mầy lớn !
Nó ép mầy học để mầy khôn !
Nó ác ôn quá phải hông ? Nó ngụy
quá phải hông ? Nó giả nhơn giả nghĩa
quá phải hông ?"
Nghe đến
đây, ông tướng nhăn mặt:
- Ăn với nói !
Rõ là không có trình độ !
Rồi ông đứng
lên:
- Tôi phải vào
cơ quan. Bao giờ cô được phép đi
thăm nuôi, gặp chú ấy nhớ bảo
tôi nhắn chú ấy luôn vững tin vào sự
sáng suốt của Đảng và Nhà Nước.
Ta khác ngụy ở chỗ xử sự có
tình có lý và lúc nào cũng khoan
hồng đối với những người biết
quay về với nhân dân.
Bà H làm thinh,
nhưng nhìn người anh chồng chỉ có nửa
con mắt ! Lúc đó, nghe tiếng thằng con
trai nhà hàng xóm: "Rồi đó ! Con
kê lại mấy ông Táo rồi đó
!”. Giọng bà mẹ, vẫn còn hậm hực:
"Dữ hôn ! Có bao nhiêu đó mà cũng
phải đợi tao nhắc năm lần bảy lượt
! Thôi ! Mầy đi phục vụ nhân dân của
mầy, đi. Chiều, vác mỏ về, con mẹ ngụy
này nó nấu cơm cho mà ăn".
... Từ ngày dọn
về đây, bà H đi làm ở tổ hợp
may thêu gần đó. Cũng phải đi
làm như thiên hạ để đừng bị
để ý theo dõi, chớ thật ra bà
chưa đến nỗi túng thiếu nhờ
đã cất giữ nữ trang trong nhà thay
vì gởi ở ngân hàng. Bây giờ,
lâu lâu bà bán một vài chỉ ...
Bà hàng xóm
- tên là bà Năm - có cái sạp
cháo lòng ở đầu ngõ. Sáng
nào, bà cũng đi bộ theo thằng con trai
đạp xe ba bánh chở thùng tô dĩa muỗng
đũa, thùng lòng dồi gia vị, nồi
cháo lớn bằng nhôm, lò dầu hôi
và mấy can nhựa đựng nước rửa
chén ... ra cây trứng cá nằm trên lề
đường Phan Đăng Lưu (tức là
đường Chi Lăng hồi trước). Ở
đây, có cái sạp gỗ dựng đứng
và bốn năm cái ghế gỗ nhỏ
được ... xiềng vào gốc cây trứng
cá. Hai mẹ con mở ống khóa, hạ cái
sạp rồi kê ngay ngắn dưới tàn
cây. Xong, thằng con về nhà lấy xe đạp,
đạp đi "phục vụ nhân dân" cho
tới tối. Thành ra, đến trưa khi bán hết
nồi cháo - bà chỉ bán có buổi
sáng - bà thâu xếp dọn dẹp một
mình ên, rồi đẩy xe ba bánh chở
đồ nghề về nhà (Bà không đạp
vì không biết đi xe đạp !).
Cứ vài bữa,
bà lại mang biếu bà H một tô cháo
lòng. Bà biết bà H là vợ thiếu
tá quốc gia và chồng đi học tập
nên bà hay tới lui thăm viếng để an ủi.
Bà H thật cảm động. Có hôm bà
nhắc chừng:
- Bà Năm cẩn thận.
Có thể tụi nó theo dõi.
- Ối ... Cái lũ
cô hồn đó tôi đâu có sợ,
cô Hai. Hồi tụi nó mới vô, bắt
mình làm tờ "báo công báo tội".
Tôi phát ghét nên khai là tôi tội
lỗi đầy đầu bởi vì gần hai chục
năm nay tôi bán cháo lòng cho ngụy
ăn chớ không cho cách mạng ăn ! Vậy
mà có thấy thằng nào đụng tới
tôi đâu, cô Hai !
- Coi vậy chớ cũng
nên coi chừng, bà Năm à ! Nhứt là
khi bà rầy la thằng nhỏ, nói đụng chạm
tới họ quá, không nên.
- Tụi nó
đã coi mình là ngụy thì cứ
thí mạng cùi chửi cho sướng miệng. Tội
vạ gì mà nín thinh ? Há ?
Nói xong, bà
Năm nhếch mép cười, làm như bà
đang thách đố cách mạng vậy !
... Khi bà H được
giấy phép đi thăm nuôi chồng, bà
báo tin cho bà Năm và nhờ bà Năm
coi chừng nhà giùm. Bà Năm mừng rỡ,
làm như ông H là người nhà:
- Dữ hôn ! Tới
bây giờ mới cho con người ta đi thăm
nuôi. Quân ác ôn ! Được rồi,
cô Hai cứ yên tâm, tôi giữ nhà cho.
Mà chừng nào cô Hai định đi ?
- Chắc mười
hôm nữa, bà Năm à. Để có
thì giờ lo cho đầy đủ. Chớ gấp
rút quá thì quên trước quên sau...
- Cô Hai nói phải
đó. Đi ra tới ngoài Bắc chớ bộ
gần gụi gì hay sao ?
Ngừng một
chút, bà Năm cầm tay bà H lắc nhẹ:
- Cần gì thì
cứ nói nghe cô Hai, đừng ngại. Mình với nhau mà...
Bà H xúc động,
lí-nhí "cám ơn" mà nước mắt
chảy quanh. Lạ quá ! Chỉ có mấy tiếng
"mình với nhau" mà sao nghe ấm cúng
vô cùng. Nhứt là trong hoàn cảnh
này, trong giai đoạn này. "Mình với nhau" là
sự nhận diện của những người
cùng đứng về một phía. "Mình với
nhau" nói lên sự cảm thông của những
người cùng cảnh ngộ, cần nương tựa
vào nhau, nâng đỡ nhau để sinh tồn.
“Mình với nhau" là tình người
không phân biệt giai cấp. Cho nên, khi mở rộng
vòng tay, bà Năm cháo lòng chỉ cần
nói có mấy tiếng đó thôi là
quá đầy, quá đủ ...
Hai hôm trước
ngày bà H khăn gói đi thăm chồng,
bà Năm qua nhà đưa một lon ghi-gô
được ràng chằng chịt bằng dây
thun:
- Cô Hai cho tôi gởi
ổng lon thịt chà bông. Tôi làm có
hơi mặn để ăn cho lâu. Tôi ém chặt
và ràng kỹ, cô Hai đừng lo đường
xa nó sút sổ. Cô cho tôi gởi lời
thăm ổng, nghen.
Bà H "cám
ơn"mà có cảm tưởng như bà
Năm là người trong quyến thuộc ! Trong khi
đi ra cửa, bà Năm còn quay lại nói:
- Cô Hai đi yên
tâm. Tụi nhỏ của cô có về chơi
thì tôi lo cơm nước cho hết. Cô nhớ
viết ít chữ để lại cho tụi nó
biết, nghen !
Bà H gật gật
đầu, nhìn theo mà thấy bà bán
cháo lòng đó còn cao cả gấp mấy
mươi lần người anh chồng làm tướng
của cách mạng !
... Đi thăm chồng
về, bà H như già đi năm bảy tuổi.
Mắt bà sưng húp, tóc tai rối bời, mặt
mũi hốc hác. Bà Năm nhìn bà H,
động lòng chảy nước mắt. Ngồi xuống
bên bà H, bà Năm hỏi:
- Sao, cô Hai ? Khổ lắm
phải không ?
Bà H mếu máo
khóc, chỉ gật gật đầu chớ không
nói được một lời. Bà Năm
nhích lại gần, choàng tay ôm vai bà H,
chửi đổng:
- Mẹ bà nó !
Quân ác ôn !
Bà H bỗng quay sang
ôm chầm lấy bà Năm, khóc nức nở.
Vừa khóc vừa cố gắng nói, câu
nói đứt ra từng khúc:
- Ảnh... ốm... đến
nỗi... tôi... nhìn... ảnh... không ra...
Đến đây,
bà Năm cảm động nghẹn lời. Bà
chỉ còn biết vuốt vuốt lưng bà H, giống
như bà đang vỗ về người em gái.
Hôm sau, bà H đội
nón lá cầm cái thơ ông H viết cho
người anh để gởi gắm vợ con, đi bộ
về cái vi-la của bà ở quận kế
bên. Bà cố tình đi bộ, vì bà
nghĩ đến chồng. Đối với những gian
khổ cùng cực mà chồng bà đã
chịu đựng từ bao lâu nay - theo lời kể
lại của ông H-– thì sự đi bộ của
bà không thấm thía vào đâu hết.
Nhưng, khi bà đi bộ, bà tưởng chừng
như bà đang chia xẻ một phần nào những
khổ dịch của chồng, người tù cải
tạo.
Vi-la của bà,
bây giờ thấy khác trước. Tường
rào đã xây lên cao. Cổng song sắt
được gắn thêm lưới sắt ô
vuông. Nhìn vào trong không còn tổ gạo,
mà sân thì đã được tráng
xi-măng lót gạch khía sạch sẽ.
Thấy có bóng
người, bà H bấm chuông. Có giọng
đàn bà hỏi vọng ra, giọng Bắc:
- Ai đấy ?
- Dạ ... tôi.
Một bà cỡ tuổi
bà H bước ra hất hàm:
- Chị muốn gì
?
- Thưa... Tôi muốn
tìm ông R. Nhà tôi có viết cho ổng
cái thơ...
- Đồng chí R
à ? Đồng chí ấy đã phục
viên lâu rồi. Đồng chí bán
nhà cho chúng tôi, xong, dọn hết về thủ
đô. Thế ... chị là gì của đồng
chí ấy ?
Bà H choáng
váng mày mặt, chỉ còn kịp tỳ
người vào trụ cổng để khỏi quị
xuống. Tuy nhiên, bà vẫn nghe tiếng mình
nói:
- Dạ... Tôi...
À... Không !
Rồi câm luôn.
Thấy bên ngoài làm thinh, bà người
Bắc bỏ đi vào trong, nhưng vẫn nói
vói ra:
- Đồng chí R hiện ở đâu,
tôi cũng không biết. Thôi, chị về
đi !
Phải một lúc lâu sau, bà H mới
hoàn hồn. Bà đứng thẳng nhìn
vào trong. Bà bỗng thấy bà đã biến
thành một người khác. Một người
cứng rắn hơn, lì lợm hơn. Một người
sẽ dám nhìn thẳng vào mặt kẻ
địch mà chửi như bà Năm cháo
lòng. Ví dụ có người anh chồng
đứng trước mặt bây giờ, bà sẽ
xáng cho anh ta một bạt tay - điều mà
trước đây bà chẳng bao giờ dám
làm dám nghĩ !
Bà H vẫn đứng thẳng, nhìn
vào trong. Mắt mở to, ráo hoảnh. Môi
mím chặt. Tay bà vò
nát cái thơ của chồng viết. Bà
vò nó mà bà không hay ! Bà chỉ cảm
thấy một sự căm thù đang dâng
lên làm bà trạo trực. Bà nghe buồn
nôn ! Phải rồi ! Bà muốn nôn mửa
lên những giả dối gian manh mà bọn
chúng nó thằng nào cũng có sẵn
trong đầu. Bà muốn nôn mửa lên những
lời lẽ giả nhân giả nghĩa mà bọn
chúng nó thằng nào cũng có sẵn
trên đầu môi chót lưỡi. Bà muốn
nôn mửa lên những thủ đoạn xảo
quyệt được ngụy trang bởi những
chiêu bài yêu nước thương dân,
có nghĩa có tình ... mà bọn chúng
nó thằng nào cũng sẵn sàng hành
động. Bà muốn ... Bà muốn ...
Bà H liệng cái thơ nhàu nát xuống
đất, phun nước miếng nghe cái phụt một
cách khinh bỉ, rồi cúi lượm cái
nón lá bỏ rơi khi nãy đội lên đầu,
đi thẳng.
... Mấy năm sau, ông H vẫn “còn
được cải tạo”, bà H lâu
lâu vẫn lặn lội đi thăm nuôi chồng,
hai thằng con lớn vượt biên rồi định
cư ở Úc, đứa con gái lấy chồng
đánh cá ở Minh Hải, thằng con út cặp
với con bạn cùng xóm mở quán cà
phê vỉa hè cạnh hàng cháo của
bà Năm. Còn bà Năm vẫn bán
cháo lòng, lâu lâu vẫn chửi thằng
con nghe giống như bà chửi Nhà Nước !
TIỂU
TỬ
(DAI DOI HAI QUAN chuyển)