Mặc cảm chiêu hồi
và khát vọng tự do
(Trần Trung Ðạo)
Mùa hè năm nay tôi đến thăm một
đảo nhỏ vùng Trung Mỹ. Thật ngạc
nhiên. Cuối tháng Bảy, những hàng
phượng vĩ trổ bông màu đỏ rực
giống hệt như trong các sân trường ở
Việt Nam.
Tuổi học trò mộng mơ ngủ yên trong
ký ức chợt thức dậy ở một nơi rất
xa xôi. Nhìn hàng phượng vĩ lòng lại
bâng khuâng nhớ đến quê nhà. Cả
gia đình ngồi bên hàng phượng đỏ
và kể cho nhau nghe những kỷ niệm về hoa
phượng. Hai mươi bảy năm. Thời gian
tôi sống ở ngoài nước đã
dài hơn thời gian tôi sinh ra và lớn
lên trong nước, thế nhưng, Việt Nam vẫn
là đề tài chính không chỉ trong
sinh hoạt cộng đồng, những buổi họp mặt
anh em văn nghệ, trong bữa cơm gia đình
mà ngay cả trong những ngày ở lại
trên một hòn đảo cách Việt Nam
hàng chục ngàn dặm. Đơn giản, bởi
vì đó là đất nước. Không có gì quan trọng
hơn đất nước. Mỗi người rồi sẽ
ra đi nhưng đất nước sẽ ở lại
cho nhiều đời sau.
Có lần tôi được hỏi mai mốt
có dịp trở về, ngoài gia đình,
tôi sẽ đi đâu khác. Tôi trả lời
rằng tôi sẽ đi thăm Hà Nội. Thật
vậy, tôi không hề có ý nghĩ trở
về chỉ để thăm những hàng phượng
đỏ trên đường Bạch Đằng
Đà Nẵng, những đồi sim tím ở Quế
Sơn hay tìm lại những gì tôi
đã mất. Không. Nền nhà cũ, con
đường xưa, trường học, dòng
sông tuổi thơ đã là kỷ niệm
và dù vui hay buồn cũng đã thuộc về
quá khứ. Mỗi thứ đã có một
ngăn riêng trong tâm hồn. Tôi vẫn ôm ấp
và sống với chúng trong mỗi ngày
tôi còn có mặt ở đây. Nếu
có dịp trở về, tôi sẽ đến
thăm sông Hồng, Quốc Tử Giám, hồ
Hoàn Kiếm, chùa Một Cột. Tôi sẽ
đi Phong Châu, Phú Thọ để dâng
nén hương lên anh linh các đấng vua
Hùng. Tôi sẽ hành hương về Yên
Tử, vùng đất tổ của Phật giáo
Việt Nam.
Ở mỗi nơi tôi sẽ không quên
dành một phút để trịnh trọng
thưa rằng tôi là người có lỗi.
Tôi có lỗi bởi vì trước
đây tôi đã nghĩ sai về Hà Nội,
nghĩ xấu về Hà Nội, nghĩ sai về miền
Bắc, nghĩ xấu về miền Bắc. Hà Nội
trong tôi 33 năm trước là trung tâm quyền
lực của một chế độ độc
tài, tàn bạo đã mang súng đạn
của Nga, Tàu về tàn sát hàng triệu
người dân miền Nam, giày xéo lên
quê hương Việt Nam. Tôi có mặc cảm
rằng ra Hà Nội là đầu hàng, ra
Hà Nội là chấp nhận chế độ,
là một hình thức chiêu hồi. Tôi ở
lại Việt Nam
thêm 6 năm nhưng nhất định không đi
thăm miền Bắc, dù có nhiều cơ hội.
Thực tế chính trị Việt Nam sau 1975 với
hàng loạt các chính sách vô cùng
thất nhân tâm là những đám mây
đen che khuất đi những đền tháp
vàng son của một Hà Nội uy nghi trong tâm
hồn tôi. Đứng trên đường phố
Sài Gòn buổi trưa 30 tháng 4 năm 1975,
tôi nhớ lại những ngày ở Đà Nẵng
đầu năm 1968 với tiếng gầm thét của
những máy bay chiến đấu, những khẩu
đại pháo nòng dài, những quân trang
quân dụng, tất cả đều được
chế tạo và mang đến từ nước Mỹ.
Và 30 tháng 4 năm 1975 cũng chẳng khác
gì. Từ khẩu súng trường cho đến
túi lương khô, nếu không mang nhãn hiệu
Trung Quốc thì cũng Liên Xô. Cả con
người cùng dòng giống với tôi
nhưng xa lạ không khác gì những anh
chàng Mỹ đen Mỹ trắng trước đây.
Đặc tính lai căng thể hiện không chỉ
trong sách vở, trong giáo trình mà cả
trong cách ăn nói, giọng hát, diễn kịch,
điệu múa, dáng đi cũng rập theo cung
cách của Nga. Hà Nội trong tôi sau 1975
không còn là Hà Nội nơi Trần Quang
Khải từng khẳng khái ngâm vang “Thái
bình nên gắng sức, non nước ấy
ngàn thu” trong đêm liên hoan mừng chiến
thắng quân Nguyên cuối thế kỷ 13. Giấc
mơ được ra thăm miền Bắc của
tôi không ai đụng nhẹ nhưng đã
tan như chiếc bong bóng nước trong cơn
mưa Sài Gòn buổi sáng cuối tháng 4
năm 1975.
Tôi cắt đứt không thương tiếc
tình yêu dành cho chiếc nôi văn hóa
của dân tộc Việt Nam mà từ tuổi thiếu
thời tôi bao đêm mơ ước một lần
được đến, được trở về
thăm, được hôn lên mảnh đất
nơi tôi đã từng viết “mỗi chiếc
lá như còn nghe hơi thở, mỗi cành
cây như có một linh hồn”. Thật vậy.
Những năm đầu thập niên 1970, khi còn
học trung học Trần Quý Cáp ở Hội
An, nếu ai hỏi tôi sẽ làm gì sau khi
đất nước thanh bình, tôi trả lời
ngay rằng tôi sẽ đi thăm miền Bắc.
Không phải vì tôi bị ảnh hưởng
bởi nhạc Trịnh Công Sơn “khi đất
nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi ba miền”,
mà vì trong các môn học tôi vẫn
thích nhất môn sử. Quê cha của tôi
là Quảng Nam nhưng đất tổ của
tôi là miền Bắc. Khi còn nhỏ, mỗi
năm trong ngày giỗ chạp, bác tôi thường
nhắc nhở con cháu, dòng họ chúng
tôi lần đầu từ ngoài Bắc đi
vào Nam chỉ có hai anh em, người anh dừng
lại ở Quảng Nam nhưng người em thì
đi tiếp vào Quảng Ngãi. Nhưng cũng sau
lần chia tay đó họ đã lạc nhau cho
đến bây giờ. Tôi lớn lên với cảm
tình sâu đậm dành cho cả hai xứ Quảng
thân yêu và niềm khao khát tìm về
những bà con cùng tộc ở miền Bắc vẫn
âm thầm chảy trong tâm hồn tôi. Thầy
dạy môn sử cũng đam mê lịch sử
như tôi và đã dạy chúng tôi những
giờ sử tuyệt vời.
Thầy diễn tả các trận Tụy Động,
Chúc Động còn hay hơn Kim Dung tả trận
Tụ Hiền Trang trong Thiên Long bát bộ. Từ
ô cửa của trung học Trần Quý Cáp,
những buổi chiều tôi đã thả hồn
mình trôi theo sóng nước sông Hồng,
và đâu đó dưới lòng sông
như vẫn còn những chiếc cọc gỗ lim
mà hơn một ngàn năm trước
đã đâm thủng chiến thuyền quân
Nam Hán hay hơn bảy thế kỷ trước Trần
Hưng Đạo đã đánh bại quân
Nguyên. Tôi thuộc nằm lòng tên tuổi
của các vị danh tướng thời Lê Lợi
như Lê Thạch, Lê Sát, Lê Lai, Nguyễn
Xí, Đinh Lễ, Đinh Liệt … và
các vương tước nhà Trần như Trần
Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh
Dư, Trần Quốc Toản … Những địa
danh Đông Đô, Tây Đô, Chi Lăng, Vạn
Kiếp, Thiên Trường đi vào ý thức
tuổi học trò của tôi như những niềm
kiêu hãnh không bao giờ phai nhạt.
Là một trong những sinh viên thuộc diện
“sinh viên chế độ cũ”, sau mấy
tháng đi làm thủy lợi, chúng tôi trở
về trường Luật học tiếp. Để
tìm giải đáp cho những câu hỏi về
Đảng Cộng sản, về chiến tranh và
cách mạng Việt Nam, tôi học rất
nghiêm túc, chăm chú lắng nghe các
cán bộ giảng dạy kinh tế chính trị,
triết học Mác - Lê, đến nhà tập
thể để tìm hiểu thêm từ các
giáo sư đại học miền Bắc về những
điều các ông các bà có thể
không nói hết ở trường và đọc
tất cả những gì có thể đọc.
Sau thời gian khá dài học hỏi và tiếp
xúc với nhiều người, tôi hiểu ra rằng
những gì tôi nghĩ về miền Bắc
trước đó là không đúng.
Tôi đã vơ đũa cả nắm. Đồng bào miền Bắc, giống
như chúng tôi ở miền Nam, đều
là nạn nhân của
ý thức hệ cộng sản, thậm chí họ còn chịu
đựng dài hơn, lâu hơn và đau
đớn hơn nhiềụ Thế hệ trẻ
chúng tôi ở miền Nam cũng may mắn hơn
những người cùng tuổi ở miền Bắc.
Chúng tôi sinh ra và lớn lên trong một
xã hội tuy không hẳn hoàn toàn tự
do nhưng vẫn có ít nhiều chọn lựa.
Chúng tôi chẳng những có quyền
phàn nàn, chỉ trích mà còn xuống
đường, hoan hô và đả đảo. Tuổi
trẻ miền Bắc thì không. Họ sinh ra khi
Đảng đã có rồi. Sự có mặt
của Đảng Cộng sản như họ được
dạy từ lớp mẫu giáo là một quy luật
tất yếu của xã hội loài người.
Đảng cần thiết như hơi thở và sự
sống, tự nhiên như nắng và mưa, khoa học
như mặt trời mọc buổi sáng và lặn
vào buổi tối. Đảng là tối thượng, là
tuyệt đối, trên cả cha mẹ, gia
đình và tổ quốc. Chính sách tẩy não, thuần
hóa con người không phải là sản phẩm
độc quyền của chế độ cộng sản,
nhưng chỉ trong xã hội cộng sản việc
“trồng người” mới được xem
như là mục tiêu của nền giáo dục.
Tôi ý thức điều đó cũng
là thời gian tôi phải lo tìm đường
vượt biển, nên không có dịp ra
thăm miền Bắc.
Đối với miền Nam, tôi cũng hiểu
ra rằng miền Nam mất không phải vì thiếu
300 triệu đôla viện trợ đặc biệt
đầu 1975 hay vì bị Mỹ bỏ rơi như
cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thở
than oán trách trong diễn văn cuối cùng của
ông vài ngày trước khi lên máy baỵ
Miền Nam mất không phải vì quân đội
Việt Nam Cộng hòa yếu kém hơn quân
đội cộng sản hay các tướng lãnh
Việt Nam Cộng hòa không tài ba thao lược
bằng các tướng cộng Sản. Cộng sản
thắng cuộc chiến Việt Nam, như tôi
đã viết trong vài bài trước
trên talawas, chỉ vì từ ngày thành lập
1930 họ luôn nhất quán với mục
đích toàn trị và bất chấp mọi
phương tiện để đạt đến mục
đích; họ tổ chức tinh vi và phát
huy triệt để tính Đảng từ trong mỗi
tổ ba người cho đến cấp trung ương,
và quan trọng nhất, họ tận dụng
lòng yêu nước truyền thống, nhất
là đặc tính bảo thủ, của người
dân Việt Nam. Việt Nam Cộng hòa thì
hoàn toàn khác. Tại miền Nam không
có một đảng chính trị nào
được tổ chức tinh vi đến mức
có thể gọi là lực đối kháng
tương xứng với Đảng Cộng sản,
không có một hệ thống thông tin ngang tầm
với bộ máy tuyên truyền cộng sản
và các nhà lãnh đạo miền Nam,
vì những vướng mắc bản thân và
mải lo tranh quyền đoạt lợi, đã
không làm sáng lên được chính
nghĩa, không tổng hợp được lòng
yêu nước, yêu tự do dân chủ trong
người dân miền Nam thành sức mạnh.
Vì thế, nếu không có ngày 30
tháng 4 năm 1975 thì rồi cũng sẽ có
30 tháng 4 năm 1976, 30 tháng 4 năm 1977, nói
khác đi, việc miền Nam rơi vào tay cộng
sản chỉ là vấn đề sớm hay muộn,
trước hay sau chứ không phải là khả
năng có hay không có thể xảy rạ
Với nhận thức đó, tôi không
còn mang mặc cảm chiêu hồi khi nghĩ về
Hà Nội và tìm lại được trong
tôi tình yêu dành cho chiếc nôi của
lịch sử Việt Nam. Vâng, nhưng đó
không phải là quan trọng nhất. Quan trọng
hơn thế nữa vì tôi hiểu đã rằng
ngay từ trên những điêu tàn đổ
nát, một cuộc chiến mới đã
được phát động trong âm thầm
trên phạm vi cả nước, đó là cuộc
chiến giữa khát vọng tự do nhân bản
và cộng sản độc tài toàn trị,
giữa tự do và nô lệ, giữa thịnh
vượng văn minh và nghèo nàn lạc hậụ
Tôi bắt gặp trong ánh mắt của những
người dân đang chui rúc dưới những
tấm ny-long trên đường Trần Hưng Đạo,
trong những căn nhà không vách ở
các vùng kinh tế mới, đang sắp hàng
bán máu ở bịnh viện Chợ Rẫy
môt niềm đau câm nín và tôi tin một
ngày những nỗi đau câm nín đó
sẽ biến thành vũ khí. Không ai nói
đây là cuộc tranh đấu dễ dàng.
Bằng chứng là, dù nói gì thì
nói, sau 33 năm chế độ cộng sản vẫn
còn tồn tại và Việt Nam vẫn còn
là một nước lạc hậu về văn minh,
nghèo nàn về kinh tế và tất cả
các quyền căn bản của một con người
vẫn còn là một mơ ước xa xôị
Cộng sản còn sống bởi
vì nhiều người nghĩ rằng cộng sản
đã chết.
Nếu cho rằng cộng sản đã chết
thì trước khi chết cộng sản sống ở
đâu ? Liên Xô sau Cách mạng 1917 có
phải là cộng sản không ? Liên Xô
dưới thời Stalin có phải là cộng sản
không ? Trung Quốc dưới thời Mao với những
“nhà máy luyện kim sau hè” và
công xã nhân dân có phải là cộng
sản không ? Bắc Hàn dưới thời Kim Nhật
Thành có phải là cộng sản không ?
Campuchia dưới thời Pol Pot có phải là cộng
sản không ? Việt Nam dưới thời Hồ
Chí Minh với Cải cách Ruộng đất
và Nhân văn - Giai phẩm có phải là
cộng sản không ? Tất cả đều
không và đều có, đều khác nhau
và đều giống nhau. Không, bởi vì
chưa có nước cộng sản nào kể cả
Liên Xô với những kế hoạch 5 năm
đầy tham vọng, đạt được những
bước phát triển kinh tế có thể giải
thích đúng với lý thuyết của
Mác; và đều giống nhau, vì tất cả
đều dùng những phương tiện mà
lý thuyết Mác - Lê đã đề cao,
đó là áp
dụng bạo lực không thương tiếc đối với các thành phần
xã hội cản trở bước tiến hay chống
đối lại các mục tiêu của Đảng
Cộng sản.
Đặng Tiểu Bình, một thời
đã được thế giới ca ngợi
là nhà cải cách xã hội lớn
và thậm chí có người còn hy vọng
ông ta sẽ từng bước mở đường
cho một Trung Quốc dân chủ, hội nhập
vào dòng phát triển của văn minh thế
giới khi họ Đặng chuyển hướng nền
kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường,
xóa bỏ toàn bộ hệ thống công
xã thời Mao, tố cáo tội ác của
Cách mạng Văn hóa, thiết lập các
khu kinh tế đặc biệt làm cửa ngõ
giao thương quốc tế, cho phép người
dân phát biểu ý kiến qua phương tiện
của “Bức tường dân chủ” gần
khu Tử Cấm thành ở Bắc Kinh. Đặng Tiểu
Bình viếng thăm Mỹ vào tháng Giêng
1979 và được Tổng thống Jimmy Carter tiếp
đãi như quốc khách, mặc dù chức
vụ của ông ta chỉ là Phó Thủ
tướng. Nhưng cũng chính Đặng Tiểu
Bình chứ không ai khác, là người
có quyền tối hậu trong quyết định tàn
sát nhiều ngàn sinh viên Trung Quốc yêu dân chủ đầu
tháng 6 năm 1989. Những chiếc tăng của
các binh đoàn 27 và 28 trên đường
phố Bắc Kinh gợi lại cho người xem
hình ảnh của những chiếc tăng Liên
Xô tại thủ đô Praha, Tiệp Khắc
mùa xuân 1965 hay thủ đô Budapest, Hungary
tháng 11 năm 1956. Thời điểm khác nhau, nạn
nhân cũng khác màu da, nhưng phương
pháp mà các lãnh tụ cộng sản
áp dụng để tiêu diệt kẻ thù của
đảng dù ở nước nào cũng giống
nhau và độc ác như nhau. Cộng sản không phải
chỉ là mớ lý luận mơ hồ mà
chính là thực tế vô cùng cụ thể
và tàn bạo.
Đặc điểm áp dụng bạo lực
không thương tiếc đó vẫn còn sống
hùng và sống mạnh tại Việt Nam. Các
cơ quan truyền thông quốc tế khi nhắc đến
Việt Nam thường kèm theo chữ cộng sản
đi đầu như để nhắc nhở người
đọc về một xã hội còn nhiều lạc
hậu, là một cơ chế chính trị độc
tài, là một đảng chính trị sống
nhờ bạo lực chứ không phải là
nơi có những con người đang theo đuổi
mục tiêu “làm theo năng lực hưởng
theo nhu cầu” như Mác viết.
Cộng sản còn sống vì
căn bệnh sùng bái cá nhân vẫn
còn hoành hành và tác hại.
Khi nói đến bịnh sùng bái
cá nhân, người ta sẽ nghĩ ngay đến
Bắc Hàn trước. Nhà báo Robert Marquand, một
chuyên viên về Bắc Hàn của tờ
Christian Science Monitor, trong các phóng sự về phần
đất cô lập từ thế giới nầy
đã thu thập hàng trăm tin tức, mẩu
chuyện về cuộc sống đồi trụy cha con
Kim Nhật Thành mà đối với phần lớn
nhân loại gần như là những chuyện
khó tin đến độ hoang đường. Theo
Robert Marquand, Kim Chính Nhất có khoảng từ 2
đến 4 tỉ đôla ký thác trong
các ngân hàng châu Âu. Sau khi kế thừa
sự nghiệp của “lãnh tụ vĩ đại”
năm 1994, Kim Chính Nhật sống xa hoa trong cung điện
Trường Thọ ở Bình Nhưỡng và
ngày đêm tận hưởng thú vui xác
thịt với các đoàn vũ cho chính họ
Kim đặt tên như “đội ca vũ”,
“đội hạnh phúc”, “đội thỏa
mãn”. Đối với việc ăn uống, y rất
kiêng cữ và chọn lọc. “Lãnh tụ
kính yêu” thích món ăn Ý hơn
là món do các đầu bếp Bắc
Hàn chuẩn bị.
Để món ăn được nấu cho
đúng kiểu, lãnh tụ mướn không
những chỉ đầu bếp Ý mà còn
yêu cầu chở nguyên cả cái bếp từ
Ý sang để nấu nướng cho y ăn. Những
điều đó xảy ra trong thời điểm
khi khối Xô-viết vừa tan rã, các nguồn
viện trợ lớn từ các quốc gia cộng sản
bị cắt đứt, hạn hán, mùa màng
thất thu, và trên đường phố tỉnh
Bắc Hàm Kính (North Hamgyong) người chết
đói nằm la liệt. Không một thống
kê nào cho biết chính xác bao nhiêu
người dân vô tội, bao nhiêu trẻ em Bắc
Hàn đã chết, nhưng theo ước lượng
từ nhiều cơ quan từ thiện quốc tế cũng
như lời kể những viên chức Bắc
Hàn cao cấp đào thoát được, khoảng 600 ngàn cho đến 3 triệu
(hơn 10 phần trăm dân số) dân Bắc
Hàn chết đói trong giai đoạn từ 1990
đến 1997. Tại sao một
đất nước 23 triệu người lại
có thể chấp nhận để những người
lãnh đạo đất nước đối xử
một cách tàn tệ như thế ? Phải
chăng họ sợ chết, bị bỏ tù, tra tấn,
lao động khổ sai ? Tất cả lý do
đó đều đúng nhưng chưa phải
là hoàn toàn chính đáng. Theo
giáo sư và ký giả Bradley K. Martin, tác
giả của tác phẩm "Dưới sự bảo
bọc đầy tình thương của cha già
dân tộc" (Under the Loving Care of the Fatherly Leader),
được nhà điểm sách Nicholas D. Kristof
của The New York Review of Books đánh giá là
tác phẩm xuất sắc nhất về xã hội
Bắc Hàn từ trước đến nay, ở Bắc
Hàn “mọi người bị tiêm nhiễm
ngay từ khi mới sinh ra để tin vào các
lý thuyết tôn thờ cá nhân. Họ tin rằng
cha con Kim Nhật Thành là bậc thánh
nhân, vượt qua khỏi các luật căn bản
của loài người, là một giống
người đặc biệt, loại người
xứng đáng để tôn thờ”. Phần
lớn dân Bắc Hàn vẫn tin rằng nạn
đói là do thời tiết, hạn hán, thất
thu chứ không phải là hậu quả của một
chính sách cai trị dã man, ngu xuẩn và
tàn bạo nhất trong lịch sử loài người.
Các đảng viên cộng sản hay
đoàn viên trung kiên của Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh khi đọc những
mẩu chuyện đau lòng đang xảy ra tại Bắc
Hàn, hẳn nhiên cảm thấy an ủi bởi
vì Việt Nam
không phải là Bắc Hàn. “Bác Hồ
tình yêu bao la” của họ không giống
như Kim Nhật Thành. “Bác Hồ” xứng
đáng được gọi là “cha già
dân tộc”, là “nhà thơ lỗi lạc”
của văn học Việt Nam, là “nhà
quân sự thiên tài” không thua kém
gì Hưng Đạo Đại vương, là
“nhà giáo dục vĩ đại” của
đất nước, không, không thể so
sánh “Bác Hồ” với cha con Kim Nhật
Thành bịnh hoạn kia được. Xin đừng
mừng vội. Nếu đi hỏi những người
dân Bắc Hàn, họ cũng trả lời
tương tự như thế. Với người
dân Bắc Hàn, Kim Nhật Thành cũng là
“nhà thơ, nhà khoa học, nhà giáo dục
vĩ đại”, đừng nói chi là
“Bác Hồ” của Việt Nam mà cả gần
bảy tỉ người trên trái đất nầy
không ai có một đời sống thanh bần,
trong sạch, một trái tim to lớn, một tình
yêu bao la dành cho đất nước hơn
là “lãnh tụ vĩ đại” và
“lãnh tụ kính yêu” của họ.
Điều đó cho thấy mức độ trầm
trọng tuy có thể khác nhau, nhưng nhiều
người Việt Nam
cũng đang mang một căn bịnh như người
dân Bắc Hàn. Một em bé khăn quàng
đỏ của Việt Nam cũng ca ngợi
“Bác Hồ tình yêu bao la” một
cách chân thành như một em bé khăng
quàng đỏ Bắc Hàn ca ngợi
“lãnh tụ vĩ đại Kim Nhật
Thành” của em. Sùng
bái cá nhân là căn bịnh của chủ
nghĩa cộng sản, nơi nào chủ nghĩa cộng
sản đặt chân đến là nơi
đó bịnh sùng bái cá nhân
phát sinh và tồn tại theo suốt chiều
dài của Đảng.
Việt Nam cũng thế, đừng nói chi các
làng bản xa xôi, nông thôn hẻo
lánh, nơi ông Hồ được đưa
vào miếu Thần hoàng để cúng tế
hàng năm, mà ngay cả ở thành phố,
trong chùa chiền, trong sách vở văn học,
ông Hồ Chí Minh, giống như cha con họ Kim ở
Bắc Hàn, vẫn được xem như là
“là bậc thánh nhân vượt qua khỏi
các luật căn bản của loài người,
là một giống người đặc biệt, loại
người xứng đáng để tôn thờ”.
Chúa và Phật
có thể sai nhưng ông Hồ thì không. Tất cả những tìm hiểu,
nghiên cứu khoa học, khách quan, độc lập
về cuộc đời ông Hồ đều bị
nghiêm cấm và có thể bị bỏ
tù nếu vi phạm. Bịnh sùng bái cá
nhân như một loại tà đạo mấy chục
năm qua đã giết chết các mầm mống
sáng tạo, vươn lên, suy nghĩ độc lập
trong nhiều thế hệ Việt Nam.
Đảng Cộng sản còn tồn
tại nhờ vào một tầng lớp có học
phục vụ cho Đảng.
Vì các lý do địa-chính trị,
Đảng Cộng sản Việt Nam khống chế
tư tưởng và đời sống con người
khôn khéo hơn cha con Kim Nhật Thành nhiều.
Thay vì đóng đinh toàn bộ đất
nước vào một hệ thống giáo điều
không tưởng như lý thuyết Juche ở Bắc
Hàn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
tạo ra những không gian sinh tồn tương đối
rộng và tồn tại một cách độc lập
dành cho các thành phần xã hội
khác nhau. Mỗi thành phần có một
môi trường sinh hoạt riêng và chịu
các điều kiện chi phối riêng. Như
Mác đã nói “Giai cấp tiểu tư sản
là đòn xóc nhọn hai đầu”,
thành phần có học phục vụ đắc
lực nhưng nguy hiểm, cho nên vừa được
nhiều biệt đãi mà cũng vừa bị
kiểm soát chặt chẽ hơn so với các
thành phần khác. Ngày nay, trong khu vườn
văn học vẫn có tiếng chim kêu, có tiếng
nước chảy, tiếng suối reo và các
nhà thơ, nhà văn vẫn có quyền
sáng tác, miễn
là đừng bước ra khỏi giới hạn
mà Đảng đã khoanh vùng. Ngoại trừ một số nhỏ
đã vượt qua hay đang tìm cách vượt
qua khỏi hàng rào cản để cùng chịu
đựng với những bất hạnh của dân
tộc, dùng ngòi bút để nói
lên thảm trạng của đất nước hay
đấu tranh cho quyền lợi đất nước,
phần lớn đã ở lại trong vườn.
Như Erich Maria Remarque viết trong Chiến hữu,
“hạnh phúc bắt đầu từ thói
quen”, họ dần dần cũng cảm thấy hạnh
phúc và tự an ủi rằng ít ra môi
trường sáng tác ngày nay tốt hơn nhiều
so với ba mươi ba năm trước. Ngày nay họ
không phải thức đêm nén bút để
ca ngợi một “anh hùng diệt Mỹ”
mà họ chưa bao giờ biết mặt hay tả một
“chiến thắng thần thánh” mà họ
chưa hề tham dự. Ngày nay họ có quyền viết về
tình dục, tình yêu và cả về cuộc
sống, miễn là đừng viết về cuộc
sống của những người đang ở trong
các nhà tù của chế độ, cuộc sống
của hàng trăm ngàn phụ nữ Việt Nam
đang bán mồ hôi nước mắt khắp thế
giới, cuộc sống của hàng ngàn người
dân oan khiếu kiện bị mất nhà mất
đất đang ngồi chờ các quan lớn trả
lời trong các công viên.
Hơn ai hết, thành phần có học biết
rằng dù trong khoa học tự nhiên hay khoa học
nhân văn, không có phản biện sẽ không
bao giờ có sự thăng tiến và phản biện
chỉ hình thành trên môi trường tự
do sáng tạo chứ không thể ở một
môi trường nào khác, thế nhưng, họ chấp nhận làm một
người câm điếc để được tồn
tại hơn là phản biện để rồi bị
tước đi bổng lộc. Mới đây, ông Chu Hảo, nguyên thứ
trưởng Khoa học Công nghệ và Môi
trường, trong buổi phỏng vấn dành cho web
Dân Trí mà talawas có nối lại trong mục
spectrum, cũng thừa nhận rằng “để
có độc lập tư duy, tự do sáng tạo
và khách quan phê phán thì phải
có một cơ chế dân chủ để đảm
bảo cho các quyền đó.” Quá
đúng. Tuy nhiên, khi được hỏi tại
sao thời còn là Thứ trưởng ông
đã không nói câu đó mà đợi
cho đến khi không còn tại chức mới
“lớn tiếng”, ông Hảo đáp “Đơn
giản là khi còn tham gia quản lý, họ
là con người của guồng máy đó
nên phải
tôn trọng kỉ luật guồng máy, chưa kể người trong cuộc
khó có cái nhìn khách quan như người
ở ngoài cuộc.”
Ông không giải thích nhưng người
đọc cũng hiểu việc “tôn trọng kỉ
luật guồng máy” chính là việc phục
vụ cho quyền lợi của Đảng Cộng sản
theo kiểu ăn cây nào thì rào cây nấy.
Nếu hiểu theo cách nói của ông Chu Hảo,
trong guồng máy nhà nước hiện nay
không ai đáng gọi là trí thức
vì không ai dám phản biện, dám
nói lên những cái đúng, tố
cáo những cái sai, biết đau cái đau
của dân tộc và biết buồn trong nỗi
buồn của dân tộc. Như phần lớn những
người thuộc tầng lớp có học,
ông cũng không đủ can đảm bước
ra khỏi chiếc chiếu mà Đảng đã
trải cho các ông ngồi. Tâm trạng của
ông Chu Hảo cũng là tâm trạng chung của
những người thuộc tầng lớp gọi
là trí thức trí thức xã hội chủ
nghĩa hiện nay, khi về hưu, thất sủng, bị
bỏ rơi, họ phê bình, phán xét
như những quan tòa, nhưng thời gian trẻ
trung, năng nổ, đóng góp được nhiều
nhất cho đất nước thì họ lại
là những kẻ tòng
phạm.
Nhà báo Mike Benge của tờ Washington Times,
trong bài bình luận trên ấn bản
ngày 1 tháng 7 năm 2007, "Láo to" sống
tại Việt Nam ("Big Lie" lives in Vietnam), cho rằng
Thomas Jefferson sẽ lăn lộn trong mồ nếu biết
ông Hồ Chí Minh đã dùng câu
nói bất hủ: “Tất cả mọi người
đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo
hóa cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được; trong những quyền ấy,
có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc”
để lừa gạt dân tộc Việt Nam suốt
hơn nửa thế kỷ qua. Trong cuộc chạy đua
vào chức vụ Tổng thống Hoa Kỳ, về
quan điểm và cách giải quyết các vấn
đề của Mỹ, John McCain và Barrack Obama gần
như khác nhau hoàn toàn nhưng cả hai
đều rất giống nhau trong định nghĩa về
đất nước. Tối ngày 11 tháng 9 vừa
qua, trong buổi phỏng vấn nhân dịp lễ
tưởng niệm nạn nhân khủng bố, khi
được hỏi tại sao ông yêu nước
Mỹ, John McCain trả lời “Tôi yêu nước
Mỹ, không chỉ là nơi tôi sinh ra và
lớn lên mà còn là lý tưởng,
là khát vọng”. Tương tự, trong diễn
văn chấp nhận làm ứng cử viên Đảng
Dân chủ, Barrack Obama đã nói: “Có
một lời hứa đã làm cho nước Mỹ
khác với các quốc gia khác, rằng qua sự
làm việc cần mẫn và hy sinh, mỗi
chúng ta có thể theo đuổi những giấc
mơ riêng nhưng vẫn đến cùng nhau
như một gia đình nước Mỹ, để
bảo đảm rằng các thế hệ sau cũng
có thể theo đuổi các giấc mơ của
họ.” John McCain và Barrack Obama không nói
để tuyên truyền hay kiếm phiếu mà
là sự thật. Từ khi Thomas Jefferson nắn
nót những dòng chữ đầu tiên cho bản
Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ
1776 cho đến hôm nay, nước Mỹ trải qua
nhiều cuộc chiến, trong đó có cuộc
chiến giành độc lập đầy vinh quang
và một cuộc nội chiến tương tàn
đẫm máu, nhưng họ vẫn là một
cường quốc. Nước Mỹ trưởng
thành không phải nhờ bom nguyên tử
mà nhờ ở giấc mơ, lời hứa,
khát vọng, như Tổng thống Kennedy một lần
đã viết: “Con người có thể chết, đất
nước có thể thăng hay trầm, nhưng
lý tưởng luôn sống mãi”.
Nhà báo Mike Benge dùng câu nói của
Thomas Jefferson để mỉa mai giới lãnh đạo
cộng sản Việt Nam như là những người
ăn cắp ý tưởng của Mỹ để lừa
gạt dân tộc Việt Nam nhưng ông có thể
không biết rằng khát vọng độc lập
tự do của dân tộc Việt Nam là một
khát vọng có thật và bắt đầu
từ nhiều ngàn năm thăng trầm của lịch
sử. Câu nói của Thomas Jefferson rất hay, những
câu trả lời của John McCain, Barrack Obama rất
ý nghĩa, nhưng không phải là quá mới
lạ. Tổ tiên Việt Nam đã mơ,
đã sống và đã chết cho giấc
mơ khai phóng của mình. Khát vọng tự
do dân chủ chưa bao giờ bức thiết hơn
lúc này, khi một phần lãnh thổ của
tổ tiên đang nằm trong tay ngoại bang, khi Việt
Nam mỗi ngày một lùi thêm so với
đà tiến của nhân loại. Đây
không phải lúc đứng trước ngã
ba để chọn lựa đường nào
là đúng nhất. Không giống như
ngày xưa, thế hệ hôm nay chỉ có hai con
đường để chọn, hoặc làm
công cụ cho chế độ độc tài hoặc
đi về phía dân tộc để cùng
tranh đấu cho một ngày mai tươi đẹp. Nếu trước 1954, chính nghĩa
của dân tộc Việt Nam là giải phóng
đất nước ra khỏi chế độ thực
dân bóc lột thì chính nghĩa của
ngày nay là giải phóng đất nước
khỏi chế độ cộng sản độc
tài, chuyên chính, đưa dân tộc
đi lên cùng nhịp với đà tiến tự
do, dân chủ và văn minh. Vũ khí
được trang bị hôm nay không phải
là bom napalm, tăng T54, súng M16 hay AK47 mà
là lòng yêu nước chân chính,
là trí tuệ của thời đại. Người
lính tự do trong trận chiến hôm nay là những
người Việt Nam yêu nước, kiên nhẫn,
biết hy sinh những quyền lợi và cả những
đau nhức bản thân mình cho nhu cầu chung của
đất nước, biết vượt qua được
những cách ngăn tôn giáo, Bắc - Nam để
sống vì tương lai của các thế hệ
mai sau. Cuộc tranh đấu sẽ không diễn ra ở
miền Nam hay miền Bắc, trên không hay
ngoài biển, mà trải rộng khắp nơi,
trong và cả ở ngoài nước. Chỗ dựa
của người lính tự do không phải
là đôla Mỹ hay súng đạn Nga mà
là lịch sử, là Đống Đa, Vạn Kiếp
trước đây và Hoàng Sa, Trường Sa
hôm nay. Những tranh luận, biện minh, đối
thoại, hay mặc cảm chiêu hồi, vì thế,
đều không còn cần thiết nữa.
Chẳng lẽ 33 năm với tất cả chịu
đựng và hy sinh, với tất cả máu
và nước mắt nhỏ xuống khắp ba miền,
chưa đủ là lý do để thay đổi
chế độ độc tài này bằng một
thể chế tự do dân chủ, mà phải
đào xới thêm trong các văn khố ở
Washington DC, Bắc Kinh, Moskva …, để chứng minh
ai bán nước hơn ai ?
© 2008 talawas
TRẦN TRUNG ÐẠO
(Bai Chuyen)