SỰ IM LẶNG CỦA BIỂN
(Trần Trung Đạo)
(Để nhớ
những ngày ở Palawan, Philippines)
Tôi sinh ra ở
miền núi nhưng hai mươi năm qua, số phận
lại đẩy về miền biển. Thành phố tôi
đang sống là thành phố biển. Ngôi trường tôi
học trước đây cũng nh́n ra biển và văn
pḥng tôi đang làm việc hiện nay được xây trên
mặt vịnh Boston, bên kia là Đại Tây Dương bát
ngát.
Thời gian
dài trôi qua, cuộc sống tạm quen dần nhưng ngày mới
về đây thật là khó chịu. Nhất là những ngày
mưa băo, biển đổi thành màu đen sậm, xa xa một
chiếc ghe đánh cá đang về trễ, tăng thêm phần
ảm đạm. Biển vừa làm cho tôi sợ hăi khi liên
tưởng đến những ngày c̣n lênh đênh hơn
hai mươi năm trước, nhưng đồng thời
cũng vừa có một sức hút vô h́nh khiến nhiều
khi tôi đă đứng hàng giờ đăm đăm nh́n
ra biển.
Các triết
gia thường nói trong mỗi phút giây chúng ta đang sống
đều có bóng dáng của quá khứ và dấu hiệu của
tương lai. Tôi nghĩ họ nói đúng. Đối với
một người Việt Nam tỵ nạn, quá khứ và
tương lai không chỉ là bóng dáng và dấu hiệu thôi,
hơn thế nữa, là hai cuộc đời cùng sống,
cùng tồn tại, cùng níu kéo nhau, xô đẩy nhau vô cùng
mănh liệt. Một giọt mưa rơi, một chiếc
lá rụng ngoài hiên, một tiếng sóng vỗ vào bờ
đá cũng làm chúng ta choàng thức dậy, lắng nghe
như tiếng có chân ai đang bước. Từ tâm cảm
đó, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng có lần đă viết
trong bài Từ tiếng hát tiếp nối của anh:"Bàn chân đi,
ḷng vẫn mong về".
Dù sao, các
văn nghệ sĩ vẫn là người may mắn v́ ít
ra họ có cơ hội để làm vơi bớt đi nỗi
u uất trong ḷng qua thi ca nhạc họa, bao nhiêu đồng
bào khác, không có năng khiếu văn chương, âm nhạc,
phải âm thầm chịu đựng. Nếu cuộc sống
ở hải ngoại không phải quần quật áo
cơm, đầu tắt mặt tối, nhiều người
Việt có thể đă chết v́ khủng hoảng tinh thần.
Những ngày
c̣n ở Việt Nam, khi nghe bài thơ, tôi chỉ nhớ mỗi
câu đầu: "Ra biển chiều nay thấy màu máu
đỏ", được đọc
trên đài VOA hay BBC ǵ đó, mô tả cảnh vượt
biên thật hăi hùng. Hẳn nhiên tôi không nghĩ vượt
biên sẽ nhẹ nhàng như ngồi trên chiếc du thuyền
nhưng tôi cũng không cảm nhận được mức
độ của kinh hoàng cho đến khi chính ḿnh ngồi
trên thành ghe mong manh vừa chết máy và đang bồng bền
trên biển tháng 6 năm 1981.
Thời gian
chầm chậm trôi qua. Một giờ rồi hai giờ. Tiếng
cầu kinh đă dừng lại trên những vành môi khô. Lời
niệm Phật đă ngưng trong những thân xác mệt mỏi.
Đất trời đều im lặng. Không ai nói với
nhau một lời nào. Trống vắng. Trống vắng
ngay cả trong suy nghĩ của con người. Nhớ
thương, hờn giận đều biết mất. Tất
cả như đang dọn ḿnh để bước vào một
cuộc đời khác. Không ai tuyệt vọng bởi v́ chẳng
c̣n ai hy vọng. Và như thế cho đến khi tiếng
máy ghe lại nổ, cuộc hải hành tiếp tục.
Biển mang
tôi về lại băi cát trắng và hàng dương liễu,
nơi tôi đứng thẫn thờ nh́n chiếc trực
thăng bay xa, bay xa, mang theo người thân yêu nhất của
tôi. Biển mang tôi về lại phường Cổ Mân, Quận
Ba, Đà Nẵng, nơi tôi sống những ngày đầu
tiên không gia đ́nh với người anh họ. Không ai biết
và sẽ không bao giờ ai biết, trên những đồi
cát trắng dọc bờ biển Sơn Chà, từng có một
thằng bé mỗi chiều âm thầm đứng nh́n về
phía biển để chờ đợi một tin vui. Tin
vui đó đă không bao giờ đến với nó. Nếu
mai mốt trở về tôi nhất định sẽ
đi t́m thằng bé. Tôi nhớ rất rơ thân h́nh ốm tong
teo của nó khi đứng chờ những chuyến xe Mỹ
chở hàng để xin quá giang qua Đà Nẵng. Tôi nhớ
rất rơ chiếc áo sờn vai thằng bé mặc trong mùa
đông, chiếc chiếu rách, chiếc giường tre
nơi nó ngủ. Và tôi cũng nhớ nó, một thằng bé
can đảm, nửa đêm thức dậy ra đi, dù
chưa biết sẽ đi đâu. Trên cồn cát trắng
kia, sau ba mươi năm, vẫn c̣n in dấu chân của
nó như đă hằn sâu trong kư ức con người.
Tôi từng
được dạy rằng tôi là chủ nhân của chính
ḿnh chứ không ai khác và ư chí của tôi quyết định
cho hành động của tôi chứ không từ đâu khác.
Học và hiểu thường không quá khó khăn nhưng thực
tế không phải bao giờ cũng dễ dàng như thế.
Tôi đi qua cuộc đời này như một chiếc lá
vàng khi chưa đủ tuổi để xanh. Tôi bay trong
giông băo và bay qua nhiều biển cả mênh mông, bao nhiêu lần
đă tưởng chừng rơi rụng và mục nát trong
một góc chân tường nào đó.
Những chiều
mưa bên Đại Tây Dương, tôi cũng bàng hoàng nhớ
lại Thái B́nh Dương, nhớ lại ngày trên biển,
nhớ Manila, Palawan, nhớ đến những người
không may mắn như tôi. Dọc bờ biển đó,
nơi tôi lắng nghe tâm sự của những em bé, câu chuyện
về những đồng bào bất hạnh, sự chịu
đựng của những người sống sót, để
rồi những tháng năm sau, tôi ghi lại trong Em bé Việt
Nam và viên sỏi, Thưa mẹ chúng con đi, và những bài
thơ khác.
Trong những
người Việt Nam bất hạnh đó có người
anh tôi đă mang ơn, người đă giúp tôi cơ hội
vượt biên. Những ḍng chữ này như nén
hương để tưởng nhớ về anh.
Tôi vẫn nhớ
ngày anh đưa chiếc ghe về, tôi hỏi anh sẽ
dùng nó làm ǵ. Anh đáp gọn "vượt biên". Tôi
cười không tin anh nói thật, khi nh́n chiếc ghe quá nhỏ,
nhưng cũng chẳng nói ǵ thêm. Chuyện tàu bè không phải
là việc của tôi, biết hay không cũng chẳng ích ǵ.
Anh mướn người sửa lại, cắt nửa
trên của chiếc ghe và đóng thêm một lớp ván bên
ngoài, sửa mũi và lái cao hơn. Anh mua một chiếc
máy nhỏ ở đường Bến Chương
Dương đem về gắn vào. Tháng sau tôi trở lại
sông, chiếc ghe cũ đă thành chiếc tàu có chiều dài
mười mét và chiều ngang chỉ một mét rưỡi.
Tuy nhỏ nhưng có dáng dấp một chiếc tàu đánh
cá hơn là chiếc ghe đi sông trước đây. Anh bảo
tôi v́ bụng của tàu vốn là một chiếc ghe nên chỉ
có thể nối cao đến thế là cùng.
Tôi được
mấy người thợ đóng ghe đưa đi một
ṿng quanh sông. Ngồi trên sàn ghe nh́n nước sông Nhà Bè màu
vàng đục, một cảm giác bất an chợt dâng lên
trong ḷng khi nghĩ đến ngày nào đó sẽ ra biển
với chiếc ghe vỏn vẹn mười mét này. Anh bảo
đừng sợ, sẽ đi biển được. Anh
dặn tôi xuống tàu sống với anh tài công và đóng
vai thủy thủ. Tôi lại cười v́ tôi không rành
bơi lội và cũng chưa hề làm nghề buôn bán trên
sông, trên biển bao giờ. Anh nghiêm giọng "Nhưng nếu
có chuyện ǵ xảy ra trên bờ th́ chú mày cũng có thể
đi thoát được".
Tôi biết
anh sắp xếp như thế v́ lo cho tôi nhưng một
phần khác để tôi khỏi có cơ hội kéo đám
bạn bè của tôi theo. Dù đồng ư hay không, tôi cũng
không có chọn lựa nào khác. Tiền bạc và công sức
đều là của anh. Anh xem tôi như một đứa
em nhỏ. Mỗi chiều khi anh ở ngoài sông về, chúng
tôi thường hẹn nhau trong một quán rượu. Anh
em chúng tôi mướn chỗ để tṛ chuyện hơn
là nhậu nhẹt v́ cả hai đều không biết uống
rượu. Hoàn cảnh của anh rất giống tôi. Anh
cũng lớn lên từ Đà Nẵng chiến tranh và nghèo
khó. Anh vào Sài G̣n học và học chung trường đại
học với tôi, khác nhau ở chỗ, khi anh lên bậc cao
học tôi c̣n là sinh viên năm thứ nhất.
Chuyến
đi khá bất ngờ. Anh chỉ cho tôi đủ thời
gian để về chào mẹ tôi. Anh không cho biết chính
xác ngày giờ v́ ngại tôi sẽ dắt theo bè bạn. Anh
biết tính tôi. Tôi hứa hẹn với nhiều người.
Một phần tôi chẳng tốn kém ǵ, phần khác v́ tánh
tôi hay chiều ḷng bạn. Những đứa được
tôi hứa dắt theo đều bị bỏ lại.
Điều này đă gây ra nhiều giận hờn đáng
tiếc giữa chúng tôi cho tới tận ngày nay. Ngày đi
tôi đóng vai thủy thủ thật. Anh hẹn mọi
người tại một con lạch nhỏ ngoài b́a làng
Chu Hải. Tôi theo ghe đến Chu Hải và ngủ đêm
lại trong con lạch để chờ khách vượt
biên.
Trời gần
sáng nhưng không thấy ai đến cả. Chúng tôi thức
dậy nh́n ra sông. Nước rút hết. Con lạch khô
như một con đường làng hẹp. Chiếc ghe
vượt biên của chúng tôi nằm chênh vênh bên bờ lạch.
Chiếc bánh lái nhỏ như chiếc quạt để
bàn đang phơi ḿnh trên cạn. Nh́n bánh lái, tôi thầm tự
hỏi, với món đồ chơi trẻ em này làm sao chẻ
nổi sóng biển Đông. Măi đến sáu giờ sáng,
nước bắt đầu dâng lên và khách vượt biên
không biết từ đâu cũng dần dần xuất hiện.
Mọi người lo ngại nh́n chiếc ghe nhỏ nhoi
trong lúc mặt trời sắp mọc. Công an và du kích có thể
đến bất cứ lúc nào. Nhiều người lo sợ
bỏ về. Anh tài công lẽ ra phải lái chiếc ghe
cũng bỏ cuộc. Nhưng nhiều người khác,
trong đó có tôi, quyết chí ra đi. Một người
khách tự động nhận trách nhiệm lái chiếc
tàu. Và như thế, chúng tôi đi. Chiếc ghe nhỏ trôi bồng
bềnh trên biển Đông hai ngày hai đêm. Mệt mỏi
nhiều hơn là đói khát. Cuối cùng sau bốn chục
giờ và một lần máy chết, tưởng như sẽ
chết, chúng tôi được một tàu hải quân Mỹ
vớt.
Tôi nhận
thư anh trong thời gian tạm trú ở đảo
Palawan. Anh đang lo đóng một chiếc ghe khác, lớn
hơn và chắc chắn hơn nhiều so với chiếc
ghe bầu sửa lại mà tôi đă đi. Chúng tôi hẹn gặp
nhau ở đảo, nếu không kịp, hứa sẽ t́m
nhau dù ở nơi nào. Trong lá thư cuối cùng, anh báo tin
đang chuẩn bị ra đi.
Anh ra đi thật nhưng không bao giờ đến. Bà con anh ở Đà Nẵng
và khách vượt biên gần cả trăm người
cùng đi với anh cũng không bao giờ đến. Anh
đă chết như hàng trăm ngàn đồng bào khác
đă chết trên biển Đông. Tôi mang ơn anh nhiều
lắm. Không có sự giúp đỡ của anh, hôm nay có thể
tôi c̣n lang thang một nơi nào đó ở Việt Nam. Tôi
đặt tên đứa con gái út của tôi cùng tên với
con gái duy nhất của anh để kỷ niệm cho t́nh
anh em tuy ngắn ngủi nhưng đầy biến cố
của chúng tôi.
Bao nhiêu
người Việt đă chết trên biển khơi
như anh. Theo ước lượng của nhiều cơ
quan thiện nguyện quốc tế, khoảng nửa triệu
người đă chết trong gió băo, trong đói khát, trong
bàn tay hải tặc từ sau 1975. Thật ra, con số
đó cũng chỉ là con số tượng trưng, cần
đó để điền vào khoảng trống của một
bảng thống kê. Tôi tin không ai biết và sẽ không bao giờ
biết được bao nhiêu người Việt Nam
đă chết trên biển Đông từ sau mùa băo lửa
1975.
Thỉnh thoảng
chúng ta vẫn đọc những lời kêu gọi, những
giải sáng tác văn thơ, tự truyện, khuyến
khích đồng hương c̣n sống sót, viết lại,
kể lại cuộc đời tỵ nạn, kinh nghiệm
vượt biên như những bài học lưu truyền
cho hậu thế. Vâng, đó là những cố gắng tốt
nhưng ai sẽ là người cầm bút viết ra
đây.
Tôi và một
số bà con khác đă kể lại v́ chuyến đi của
chúng tôi tuy hồi hộp nhưng không gây nhiều thiệt
tḥi, mất mát. Trong lúc những câu chuyện cần
được nghe, những bài học cần được
kể lại, sẽ không bao giờ được kể.
Làm sao tả
được cảnh những người phụ nữ
Việt Nam nằm trần truồng trên sàn ghe như những
con cá vừa được kéo lên, đang chờ mổ bụng,
ướp đá?
Làm sao tả
được tâm trạng của người chồng bị
trói chặt, nh́n người vợ mang thai bị hải tặp
hiếp dâm trước mắt?
Làm sao tả
được tiếng kêu của em bé lên sáu, lên năm khi
nh́n xác mẹ ḿnh bị ném xuống biển sâu?
Làm sao tả
được cảnh người thoi thóp phải ăn
thịt người vừa chết để kéo dài sự
sống trên chiếc ghe chết máy lênh đênh nhiều tháng
trời trên biển Đông?
Không, những
câu chuyện vượt biên bi thảm là những viên đá
ngh́n cân đè nặng lên số phận của đồng
bào bất hạnh và sẽ muôn đời ở lại
trong ḷng biển.
Bên trong chiếc
cửa kính dày của văn pḥng làm việc, vào những
ngày giông băo, những ngọn sóng lớn đánh vào bờ
đá, tung bọt cao đến tận chân tường, gió
thổi mạnh đến nỗi xé nát những tấm bảng
quảng cáo cắm dọc bến tàu. Những lần
như thế, tôi ngồi tưởng tượng đến
những điều kỳ lạ có thể đang xảy
ra trong vùng nước phía bên kia. Tôi cảm giác như có một
xác chết đang trôi, một bàn tay vừa nhô lên mặt
nước, một tia máu vừa phọt ra từ miệng
cá.
Tôi cố lắng
tai nghe nhưng không nghe ǵ cả. Lớp kiếng cách âm dày
đă ngăn giữa căn pḥng ấm áp nơi tôi làm việc
và giông băo phía bên kia như ngăn cách giữa hiện tại
no đủ và quá khứ đầy thiếu thốn của
tôi.
Nhưng nếu
không có lớp kính dày kia liệu tôi có nghe được ǵ
không?
Vẫn có thể
là không. Cuộc sống xứ người đă cuốn
tôi đi xa, xa đến mức nhiều khi không c̣n biết
ḿnh là ai nữa. Tôi vẫn đọc mỗi ngày bao nhiêu tin
buồn về đất nước, tôi đă thấy mỗi
ngày bao nhiêu cảnh bất công đè nặng lên số phận
đồng bào. Nhưng, ngoại trừ những bài
thơ, bài văn viết khi nhàn rỗi, tôi vẫn dửng
dưng nh́n bàn tay của những em bé Việt Nam năm sáu
tuổi đang vẫy mời những khách mua dâm ở
Campuchia và tôi vẫn lạnh lùng nh́n giọt nước mắt
của những cô gái Việt Nam đang chảy trên
đường phố Đài Loan.
Phải
chăng con đập áo cơm đă ngăn đôi ḍng sông
lư tưởng thời tuổi trẻ của tôi?
Phải
chăng hàng rào danh lợi đă che khuất đi khả
năng để biết lắng nghe tiếng kêu gào thống
thiết của quê hương và cả tiếng gọi của
chính trái tim ḿnh?
Có thể cả
hai. Biển, v́ thế, vẫn lặng yên, câm nín như nỗi
đau của đồng bào tôi và đất nước
tôi.
TRẦN TRUNG ĐẠO
(Thanh Long sưu tầm và chuyển)