Tóc Trắng
(Tiểu Tử)
Ông
Hai vừa mở mắt thức giấc đã nghiêng đầu
nhìn cái đồng hồ reo nằm trên bàn cạnh đầu
giường. Đồng hồ quartz loại nhảy số.
Ông nheo mắt đọc: "Chín giờ hai mươi".
Rồi nằm ngay ngắn lại, càu nhàu :"Đồng
hồ gì mà không có một cây kim, không có một tiếng
tích-tắc. Chẳng biết đâu mà rờ !".
Ông
nhớ lại hồi còn ở bên nhà, ông cũng có một
cái đồng hồ reo đặt ở cạnh đầu
nằm. Nó lớn bằng bốn cái đồng hồ
điện tử "mắc dịch" này. Nó hiệu
Jaz, ông còn nhớ rõ. Nước xi bóng loáng, mặt dạ quang,"ban
đêm thấy rõ như ban ngày"! Và khi nó reo thì .. "hàng
xóm còn nghe chớ đừng nói chi người nằm ngủ
kế bên". Như vậy mới gọi là đồng hồ
báo thức. Chớ phải đâu như cái đồng hồ
điện tử này, nó reo "bíp bíp, bíp bíp" nhỏ rí
như sợ người ta nghe ! Ngoài ra, cái đồng hồ
reo của ông, không cần nhìn cũng biết nó đang chạy,
bởi vì chỉ cần nghe tiếng "cộc cộc, cộc
cộc" của nó là đủ. Phải công nhận là tiếng
kêu của nó "có hơi lớn", nhứt là về
khuya, lúc thanh vắng, nghe giống như tiếng gõ mõ nhịp
đôi. Hồi xưa, hồi còn sanh tiền, bà Hai vẫn
phàn nàn về vụ tiếng "cộc cộc, cộc cộc"
của cái đồng hồ. Bà nói: "Cái đồng hồ
reo của ông càng già càng kêu lớn. Nó giống như ông,
càng về già ông càng ngáy to, chẳng để cho ai ngủ
hết !". Rồi, chẳng lẽ đi chỗ khác ngủ
sau mấy chục năm ngủ chung, bà Hai đã giải
quyết vấn đề bằng cách .. nằm ngược
chiều với ông Hai, nghĩa là bà nằm xoay đầu về
phía chân giường. Dĩ nhiên là ông Hai đã phật ý,
không thèm nói chuyện với bà Hai hết một thời
gian. Nhưng riết rồi cũng quen đi,nên không còn
để ý đến tình trạng dị thường
đó. Cũng như ông Hai đã quen nghe tiếng "cộc
cộc, cộc cộc" của cái đồng hồ nên
không nhận thấy là nó kêu lớn ! Đối với ông,
tiếng động quen thuộc đó chứng tỏ là
cái đồng hồ còn "sống", nghĩa là ông
không có quên lên giây thiều. Và như vậy, ông mới yên
lòng dỗ giấc ngủ.
Ông
Hai đưa mắt nhìn quanh căn phòng nhỏ. Thời tiết
đã sang xuân nên vào giờ này, trong phòng đã đầy ánh
sáng. Căn phòng thật là "nhỏ xíu giống như một
cái hộp". Hồi ông mới tới Pháp, mấy con ông
đi rước ở phi trường Charles de Gaulle, tíu ta
tíu tít: "Tụi con đều ở chung một immeuble. Chỉ
có chị Hai là ở tuốt dưới Tours. Mới đầu,
tụi con định lấy một studio trong immeuble cho Ba ở,
nhưng chị Ba không chịu. Nói Ba già rồi, ở một
mình bất tiện, nên chị Ba dọn cho ba một phòng
riêng trong appartement của chỉ, có vue xuống lac. Rồi
ba coi. Dễ thương lắm !". Ông Hai chưa từng
xuất ngoại nên chẳng hình dung được cái "appartement"
bên Pháp nó ra làm sao, nhưng nghe các con diễn tả có vẻ
"rất vừa ý cả bọn", ông cũng nghe vui
trong lòng.
Khi
về đến nhà Kim - người con gái thứ nhì của
ông Hai - ông tưởng như đi vào một cái hang chớ
không phải một cái nhà !
Cái gì mà mới bước vào là đã phải lo quẹo
trái - bởi vì bên mặt là cửa vào nhà bếp - rồi
bước vài bước phải quẹo mặt rồi lại
quẹo mặt lần nữa để tránh nhà tắm và cầu
tiêu nằm liền nhau ở góc đó, rồi đi tới
mấy bước lại phải quẹo trái mới vào
được căn phòng "có vue xuống lac dễ
thương lắm". Phòng nhỏ xíu vuông vức, bước
có mấy bước là đụng tường, nhìn ra phía
ngoài qua ô kiếng to thấy trời lồng lộng bởi
vì không có nhà ở phía đối diện. Nhìn xuống bên
dưới - vì nhà ở từng thứ tám - thấy toàn bộ
cái hồ nhân tạo thật rộng với đồi cao
trũng thấp và những con đường đất
nhỏ uốn khúc quanh quanh. Thằng Út - con trai út của
ông Hai, tên Tuân nhưng ở nhà quen gọi là Út, năm nay "trên
hai mươi tuổi là ít" - ôm lấy lưng ông Hai
đang đứng gần ô kiếng : "Ba biết không ?
Ở Paris khó kiếm được nhà có cái vue như vầy
lắm. Và hướng này là hướng đông nam, sáng, nắng
vào tận phòng. Ba có thể vừa ngồi đây sưởi
nắng vừa nhìn xuống lac coi vịt, thiên nga .. Tụi con biết thế nào Ba
cũng thích". Ông đưa tay vỗ vai nó - bây giờ nó
cao lớn quá, không vỗ được đầu nó
như hồi thuở ông đưa nó lên phi trường
để "đi Tây" - gật gật đầu:"Ờ
.. Ba cũng thích lắm !". Nói như vậy, nhưng khi
mấy con kéo hết ra phòng khách để cho ông thay đồ,
ông ngồi xuống giường nhìn quanh rồi thở dài
.. Mấy đứa con, vì "đi Tây" quá sớm,
không biết cái nhà mà ông đã xây cất ở trên sở cao
su của ông. Cái nhà đó, ông đã mơ nó từ thuở
còn là thơ ký cho hãng cao-su Terre Rouge. Hồi đó mới có
hai đứa con, mà đã hình dung trong đầu một cái
nhà thật to, kiểu "colonial", có hàng ba thật rộng
vây quanh để tránh trời trưa hanh nắng .. Cái nhà "trong
mộng" đó phải to hơn đẹp hơn cái nhà
của thằng chủ Terre Rouge. Mà muốn như vậy,
không phải làm công suốt đời mà có được.
Vậy là hai vợ chồng "thôi" Terre Rouge (bà Hai
cũng làm việc cho Terre Rouge). Rồi vay nợ ngân hàng,
gom góp từng đồng để xây dựng một
đồn điền cao su riêng cho mình. Sau đó, phải
đổ mồ hôi xót con mắt hết mười mấy
năm để bắt đầu dư dả tiền bạc
thực hiện "cái nhà trong mộng". Ông hãnh diện
với cái nhà đó lắm. Ông thường nói :"Tôi
đã vẽ nó trong đầu hồi tôi chỉ có hai bàn tay
trắng". Hôm ăn tân gia, ông Hai đã "mời hết
cả tỉnh" đến dự, có cả mấy hãng
cao su Terre Rouge, SIPH .. Quan khách ai cũng trầm trồ khen
ngợi, nhứt là cái phòng ngủ thật rộng trong
đó có cả bộ xa-lông để ông Hai ngồi hút thuốc
đọc báo nghe ra-dô ! Hồi 75, Việt Cộng về, vẫn
cho ông ở cái nhà đó tuy rằng sở sùng đã bị tịch
thu hết ( Họ nghĩ tình hồi xưa ông đã "đóng
góp" giúp cách mạng nên cho ông một chân trong tổ kế
hoạch, suốt ngày ngồi .. uống trà, hút thuốc. Vụ
này đã làm cho bà Hai buồn rầu sanh bịnh rồi qua
đời vào giữa năm sau ..) Rồi lần lần,
Việt Cộng "lấn" ông ra nhà bếp để
lấy nhà trên làm trụ sở ủy ban nhân dân. Cái nhà bếp
đó vậy mà rộng rãi thoải mái hơn cái "phòng nhỏ
có vue xuống lac" này ..
Nghĩ
đến đó, ông Hai bật cười. Hồi mới
đến tịch thu đồn điền, Việt Cộng
chạy xe thẳng vào văn-phòng nằm cạnh con lộ
cái. Ở đó, có khu nhà máy, khu nhà kho, khu cơ giới ..v.v.
Thấy đồ sộ như vậy, chúng nó bèn đóng
chốt ngay ở văn phòng, ăn ngủ ở đó luôn
mặc dù trong đồn điền còn có khu nhà ở, bịnh
xá, trường học, câu lạc bộ .. không thiếu gì
nơi để ở. Đã gọi là hòa bình rồi mà tụi
Việt Cộng vẫn còn lối sống dã chiến: lấn
chiếm được đến đâu là "ta đóng
chốt ngay ở đó thôi". Về sau, khi chúng nó "báo
cáo rằng mạng lưới tổ chức đã hoàn chỉnh"
thì khu văn phòng đã biến thành nhà ở của mấy
gia đình cán bộ, còn nhà ở của ông Hai được
chia đôi, một bên làm văn phòng, một bên làm ủy ban
nhân dân - nghĩa là làm việc ở cách nhà máy trên hai cây số
! - nhà bếp của ông đã biến thành nhà kho sau khi chúng
nó đã "lích" ông ra nhà kho để ở ! Cái gì
cũng ngược ngạo hết. Ngược ngạo
đến vô lý ! Vậy mà hễ mở miệng ra là chúng
nó cứ tự hào là "đỉnh cao trí tuệ" !
Nắng
đã bắt đầu vào đầy phòng. Căn phòng nhỏ
bây giờ thật ấm. Ông Hai vẫn nằm yên, lắng
nghe từng tiếng động. (Đó là cái thú "nằm
nướng" của ông hồi còn ở bên nhà vào những
sáng chủ-nhựt rỗi rảnh). Bốn bề yên lặng.
Lâu lâu nghe tiếng nước "giựt cầu" từ
mấy từng lầu trên theo ống dẫn chảy ngang một
cách âm thầm vội vã .. Rồi hết. Yên lặng đến
buồn thiu ! Chẳng bằng ở bên nhà. Hừng sáng
đã nghe gà gáy, không phải một con mà là ba bốn con, gáy
"đối đáp" thật rộn rã. Rồi tiếng
bầy chim trong lá ríu rít, nghe lúc xa lúc gần đủ biết
là chúng đang bay liệng từ cây này sang cây nọ, trở
đi trở về. Đến khi nghe mấy con gà mái kêu tục
tục xen lẫn tiếng gà con chiêm-chiếp, tiếng vịt
khàn khàn, tiếng ngỗng hoen-hoét .. là biết ngay thím Tám
Lư đang cho gà vịt ăn ở vườn sau. Rồi
đến tiếng mô-tô nổ máy, rồ vài "cú" xong
là nghe tiếng máy đi xa lần xa lần. Đó là thằng
Rớt đang chạy xuống tỉnh mua hủ tíu về
cho ông ăn sáng. Ngần đó tiếng động vây quanh
ông, thật là tầm thường nhưng cũng thật
sinh động. Chẳng có gì hết, vậy mà sao ông nghe
hoài không thấy chán. Trái lại, mỗi lần có dịp
"nằm nướng" để lắng nghe những
tiếng động quen thuộc đó, tâm hồn ông lâng
lâng trải rộng. Làm như chúng nó đem đến cho
ông cái thi vị đầu ngày, nhẹ nhàng tươi mát ..
Những tiếng động đó, bây giờ, ông nằm
đây trong cái yên lặng của căn phòng nhỏ, ông
mường tượng như còn nghe rõ ở trong đầu.
Không sót, không quên một tiếng động nào hết, kể
cả tiếng đổ kiểng tòn-teng tón-teng mỗi
mười lăm phút của cái đồng hồ Wesminster
treo ở phòng khách nhà ông. Ờ .. cái đồng hồ hồi
đó ông mua ở Passage Eden đường Catinat.Thùng làm bằng
gỗ quí chạm trổ thật khéo. Trên mặt có ba lỗ
để lên dây thiều : một lỗ để cho máy chạy,
một lỗ để đổ kiểng, một lỗ
để đánh giờ. "Trứng dái" đong
đưa nghe cọc-cạch cọc-cạch chậm rãi
đều đặn (Về điểm này, bà Hai cằn
nhằn :"Ông ăn nói không thanh bai chút nào hết. Quả
lắc thì gọi là quả lắc, chớ gọi trứng
này trứng nọ nghe dị-hụ quá chừng !". Ông
cãi:"Thì từ xưa đến giờ thiên hạ gọi
cái đó là trứng dái, chớ gọi bằng gì ? Tôi chẳng
thấy có gì tục tĩu trong đó hết. Tại vì mình
nghĩ bậy nên mới thấy nó tục". Từ
đó, bà Hai không thèm đá động tới cái bộ-phận
lòng-thòng lắc qua lắc lại ở phần dưới
của cái đồng hồ Westminster !) Hồi đó, những
lúc "nằm nướng", ông hay lắng tai nghe tiếng
đồng hồ đổ kiểng dìu dặt : đổ
"một hồi" là mười lăm phút, đổ
"hai hồi" là ba chục phút, đổ "ba hồi"
là bốn mươi lăm phút, còn đổ "bốn hồi"
là sửa soạn đánh giờ .. Thật là thú vị !
Mình "nghe" thời gian đi qua và "biết" thời
gian đã đi qua từ lúc nào ! Thành ra, tiếng cọc-cạch
cọc-cạch, tiếng đổ kiểng, tiếng
đánh giờ của đồng hồ Wesminster cũng thuộc
vào những tiếng động mà ông Hai đã mang theo trong
lòng khi bỏ xứ ra đi ..
Giờ
này, nhà vắng teo. Vợ chồng Kim đã đi làm, chiều
mới về. Thằng Tí, bốn tuổi, cháu ngoại của
ông, đã được cô Út của nó rước về
Antony hôm qua vì có ông bà nội nó từ dưới tỉnh
lên chơi. Hồi ông mới qua Pháp, lần đầu gặp
thằng Tí, nó thấy người lạ nên lấp ló núp
sau váy của má nó, miệng cười lỏn lẻn. Má nó
nói: "Ông ngoại nè con. Bonjour ông ngoại đi !". Ông
ngồi xuống ghế xa-lông đưa hai tay về phía nó
: "Lại đây. Lại đây ngoại cưng". Má
nó phải đẩy nhẹ nó mấy lần nó mới
bước tới bắt tay ông Hai. Ông ôm nó vào lòng, hôn lên má
phinh-phính của nó mà nghe thơm nghe ngon. Tình thương bỗng
dâng tràn trong lòng. Trong giây phút đó, ông bỗng thấy chẳng
còn tiếc cái gì nữa hết, từ đồn điền
cao su đến cái nhà "trong mộng" mà Việt Cộng
đã chiếm đoạt. Làm như đứa cháu ngoại
mà ông đang ôm trong vòng tay đã mang đến cho ông một
luồng sinh khí mới, một cái gì mà ngay bây giờ đã
chiếm trọn tâm hồn ông. Lạ quá ! Có bằng chút xíu
như vậy - thằng Tí - mà đã có thể thay thế
được những gì thật lớn lao thật sâu rộng
mà ông đang mang mểnh trong lòng như quê hương
như sự nghiệp ! Ông lại ôm hôn nó một lần nữa
để nhận thấy rằng ông không lầm : tình cảm
mới mẻ đó có thật như vậy. Lần này, chẳng
ai bảo mà thằng Tí tự nhiên nhón chân lên hôn ông Hai. Nó hôn
bằng mũi giống như ông hôn nó ! Rồi nó quay lại
nhìn mọi người, miệng cười lỏn lẻn.
Ông ứa nước mắt vì sung sướng và nghĩ rằng
ở cái tuổi già và trong cuộc sống lưu vong, có
được đứa cháu ngoại như vầy, thật
là Trời còn thương ông nhiều quá ! Rồi ông ví-von :
quê hương của ông bây giờ là thằng cháu ngoại
này. Ông sẽ vun-bồi nó như ngày xưa ông đã vun bồi
chăm sóc vườn ươn cao su con, để khi
đem ra "lô" nó sẽ lớn mau lớn mạnh. Nhứt
là cái gốc Việt Nam, phải còn, phải có ..
Từ
đó hai ông cháu như hình với bóng. Ông lãnh phần
đưa rước thằng Tí đi trường mẫu
giáo. Mỗi sáng, ăn điểm-tâm xong là ông cháu dẫn
nhau thả bộ lại trường nằm cách nhà không xa
lắm, ở khu nhà nằm phía bên kia hồ. Thằng Tí phát
âm tiếng "ngoại" không được, nên gọi
ông nó bằng "moại" nhưng lại nghe ra là "mọi"
làm má nó rầy quá, cứ bắt thằng nhỏ chu môi ngoáy
miệng lặp đi lặp lại cho đúng. Ông rầy
: " Kệ nó, con ! Từ từ .. Đừng làm quá
đây rồi nó bị mặc-cảm không thèm gọi ba bằng
gì hết thì khổ ? Thà để nó gọi trại trại
mà mình còn nghe có cái gì Việt Nam. Rồi mình sửa lần,
con hiểu không ?". Ông
thường can thiệp những chuyện như vậy
nên thằng Tí thích ông ngoại nó lắm. Đi với ông,
nó học từng tiếng Việt và cố gắng nhớ
để nói cho đúng. Bởi vì nó thấy mỗi lần
nó nói đúng, ông ngoại nó thật vui. Còn ôm nó hôn trơ trất
nữa. Có một lần ông Hai chỉ mấy con vịt
đang lội trên hồ, hỏi : "Con này kêu là con gì, Tí
?". Thằng nhỏ nhìn vịt rồi nhìn ông, vừa lắc
đầu vừa cười lỏn lẻn: "Không biết".
Ông nói, phát âm từng tiếng thật rõ : "Con ..vịt".
Thằng nhỏ lặp đi lặp lại mấy lần
cho đúng và cho nhớ. Một lúc sau, ông chỉ vịt mà hỏi:
"Con này là con gì ?". Thằng nhỏ nói "Con .. "
rồi há miệng tròn vo định nói tiếp. Ông thấy
ngay là sai rồi, bởi vì "vịt" không thể phát
âm với cái miệng mở tròn được. Ông bèn ra dấu
để nhắc nó, ông chỉ chỉ lên miệng ông. Ở
đó, ông bành môi ra cho giẹp giẹp như sắp phát âm "vịt".Thằng
nhỏ mắt sáng rỡ, khép miệng lại rồi làm y
như ông nhắc. Nó nói "vịt" mà đầu nó gật
xuống một cái, đủ thấy nó cố gắng vô
cùng làm ông thấy thương quá. Bỗng nó hỏi : "Moại
! Moại ! Sao con vịt nó giống con .. nó giống con .. ".
Ông "tiếp hơi" cho thằng nhỏ : "Nó giống
con .. ?". Thằng Tí nói lớn như vừa được
tiếp sức, vừa lớn vừa rõ : "Nó giống
con canard .. ?". Ông bật cười, chửi đổng
nho nhỏ "Cha mầy !" rồi ôm hôn nó đầy mặt
đầy cổ. Nó nhột, rút đầu rút cổ cười
lên hăng-hắc ..
Nghĩ
đến đó, ông Hai thở dài. Bây giờ, ông không còn
đưa rước thằng Tí nữa. Má nó "giành"
làm. Viện cớ là cần gặp thường xuyên những
người phụ trách mẫu giáo để hỏi han
theo dõi tình hình phát triển của thằng nhỏ. Ông nghi
là có một lý-do nào khác mà má thằng Tí không tiện nói ra. Mới
đầu, ông thật buồn, nhưng rồi cũng phải
nhẫn nại chịu như vậy. Và định bụng
có dịp nào đó sẽ hỏi Kim cho "rõ trắng
đen". Trong khi chờ đợi, ông "nằm nhà
như một người thất nghiệp", đi ra
đi vô phòng khách nhà bếp, hút thuốc hết điếu
này đến điếu khác. Lâu lâu nhìn đồng hồ
để coi mấy giờ, làm như đang trông một
cái gì hay đang đợi một người nào đó ! Có
hôm ông cũng xuống dưới nhà đi bách bộ quanh hồ,
rồi quen chân đi lại trường mẫu-giáo đứng
cạnh rào lưới kẽm đưa mắt tìm thằng
Tí trong bầy trẻ đang nô đùa bên trong. Không có gì : ông
chỉ cần thấy xa xa thằng cháu ngoại đang la
hét chạy nhảy với bầy bạn của nó là đủ
để ông nghe trong lòng phơi-phới một niềm vui
.. Có khi thằng Tí nhìn thấy ông, nó mừng rỡ vừa
chạy lại vừa kêu :"Moại ! Moại !"
Đến hàng rào, nó đưa ngón tay trỏ mũm mĩm
qua lỗ lưới kẽm để cho ông nắm lấy
bằng đầu mấy ngón tay khẳng khiu của ông, lắc
nhè nhẹ. Đó là cái "bonjour" của hai ông cháu. Xong,
ông nói : "Thôi ! Vô trỏng chơi đi con. Ngoại về"
. Chỉ có như vậy thôi ! Vậy mà cả ngày hôm
đó, cái gì ông cũng thấy tươi thấy đẹp
..
Ông
Hai vươn vai ngáp rồi ngồi dậy với lấy
áo lạnh dài tay máng trên thành ghế mặc vào kỹ càng mới
bước xuống giường. Ông kéo cái couette xuống
phía chân giường để so lại thẳng thớm
cái mền xếp đôi nằm giữa cái drap và cái couette.
Xong, ông lại kéo cái couette đắp trở lại trên mền,
kéo mí drap phủ lên couette. Cuối cùng, ông lòn tay kéo tất cả
cái "thứ tự" đó lật ngửa lên và tuột
xuống phía chân giường. Ông phải làm như vậy
để chiều về con gái ông làm giường thấy
rằng "ông ngủ hạp vệ sinh" nghĩa là có nằm
giữa hai lớp drap đàng hoàng !
Câu
chuyện có vẻ "rắc rối" này bắt đầu
từ hồi ông mới qua Pháp. Hai đêm đầu, ông ngủ
không được. Một phần vì sự chênh lệch
giờ giấc, một phần vì lạ nhà và nhứt là lối
"ngủ theo tây" ông không hạp. Cái gì mà khi mình chui vào
giữa hai tấm drap, mình nghe nó lạnh ngắt. "Mò"
tới đâu là nghe lạnh tới đó, mặc dầu
bên trên có phủ kín nhét kỹ một cái couette dầy. Rồi
phải nằm đợi một lúc lâu, bên trong mới âm ấm
! Đến ngày thứ ba, ông nói với con gái :"Cho ba xin
một cái mền, con !" Kim ngạc nhiên :"Ủa ! Bộ
cái couette không đủ ấm sao ba ?" Ông ngần ngừ
rồi đáp:" Thì .. cũng ấm. Nhưng ba muốn
có một cái mền ..". Ba thằng Tí chen vào, nói với
Kim:"Thì em cứ mua cho ba một cái mền, đi ! Ba già
rồi chớ phải như tụi mình đâu mà ngủ với
cái couette là đủ". Vậy là hôm đó, đi làm về,
Kim mang về một cái mền to. Kim xếp cái mền làm
đôi đặt ở giữa tấm drap trên và cái couette.
Đêm đó, thay vì chui vào giữa hai lớp drap, ông Hai chui
vào giữa hai lớp mền ! Chui vào tới đâu là nghe ấm
tới đó ! Thật là thích thú ! Ông đưa bàn chân "mò"
bên mặt bên trái, ông đưa bàn tay rờ rờ lớp mền
dưới lớp mền trên, bắt gặp lại cảm
giác quen thuộc khi đắp mền hồi còn ở bên
nhà : lông mền dù mịn nhưng vẫn đâm đâm
chích-chích. Ông lại thích như vậy. Ông nhớ lại hồi
nhỏ khi còn ở với bà nội dưới quê, trưa
trưa ông hay nhảy vào bồ lúa trải cái bao bố tời
lên mặt lúa rồi "ình" lên đó ngủ một giấc
"ngon lành". Riết rồi ông ghiền cái vừa êm êm
vừa xót xót đó ! Cho nên khi đã chui vào giữa hai lớp
mền, ông tưởng chừng như ông là đứa bé vừa
nắm được "cái ghiền" để
đi vào giấc ngủ .. Vậy rồi hôm sau, khi con gái của
ông làm giường thấy cái "ổ" êm êm xót xót
đó, la lên :"Trời ơi ! Ba ngủ gì kỳ vậy
? Người ta nằm giữa hai lớp drap cho nó sạch
sẽ hợp vệ sinh, bởi vì drap mình thay mình giặt.
Chớ còn chui vào mền, nó tẩm trong đó chịu gì nổi
!". Vậy là từ đó, đầu hôm, ông chui vào hai lớp
drap "cho con nó vui". (Kim thường đưa cha vào
giường mỗi tối để chèn tấn mí couette
thật kỹ sợ ông già thấm lạnh về khuya).
Nhưng khi đã tắt đèn, ông chờ một lúc "coi
động tịnh thế nào" rồi mới chun ra
để mò mẫm dở mí mền chui vô .. Rồi sáng nào
dậy cũng phải .. sắp xếp lại drap mền
couette cho có vẻ "tự
nhiên", làm như ông đã ngủ giữa hai lớp drap,
"đúng như lời con nó dặn" !
Ông
đốt điếu thuốc rồi vào ngồi trong cầu
tiêu. Cái cầu này, ông đã để ý từ hôm mới
đến, nước cứ chảy tỏn tỏn. Chắc
cái clapet đóng không kín. Mấy vụ này mà có thằng Rớt
ở đây thì chỉ "mười lăm phút, nửa
tiếng là xong ngay". Thằng Rớt là con trai út của
Chín Lúa, người phụ tá đắc lực của ông.
Chín Lúa đến giúp việc cho ông từ thuở ông còn chạy
nợ hốt hụi mỗi cuối tháng để trả
lương dân thợ. Sau này, vì nghĩ đến cái công
góp phần dựng nghiệp đó mà ông đã cắt đất
cho vợ chồng Chín Lúa ra canh tác riêng, ông giúp nông-cụ
cơ-giới và phân bón. Thay vì trồng cây ăn trái như
các nhà vườn khác, Chín Lúa lại tiếp tục trồng
cao-su. Ông Hai thường nói đùa :"Tên là Lúa, dân Hậu
Giang, vậy mà lại lập nghiệp ở miền
Đông và chuyên môn trồng cao su chớ không phải trồng
lúa ! Thiệt là tréo cẳng ngỗng !". Cái hôm mà vợ
Chín Lúa chuyển bụng thằng Rớt, Chín Lúa đi Sàigòn
vắng. Hay tin, ông bèn cho tài xế lấy xe đưa bà bầu
đi sanh. Nhưng đi nửa đường là thằng
nhỏ đã lọt lòng ! Vì vậy mới đặt tên nó
là Rớt. Về sau, để tỏ lòng biết ơn, vợ
chồng Chín Lúa bắt thằng nhỏ gọi ông bà Hai bằng
ông nội bà nội. Lớn lên, thằng Rớt chỉ mê
có máy-móc. Thứ gì nó cũng "dọc". Máy nào
ăn-banh, nó cũng lăn vào phụ mấy ông thợ cái
mò ra "bịnh" để sửa. Nhờ vậy mà nó
giỏi. Trong nhà, có cái gì hư cũng một tay nó sửa hết.
Cho nên bà Hai mến nó lắm. Hồi bà Hai mãn phần, nó
cũng chít khăn chịu tang, rồi dọn về ở
với ông Hai "cho có ông có cháu". Chiều chiều nó lấy
Honda đèo "ông nội" nó xuống quán Tư Siêu nhậu
thịt rừng. Nó không ưa Việt Cộng. Nó nói với
ông Hai :"Tụi này xài không vô, nội à ! Dốt thấy mẹ
mà cứ làm tàng. Cho nên rớ tới đâu là hư tới
đó, rồi chê trong Nam máy móc thiết bị không đúng
tiêu chuẩn, bảo quản không có kế hoạch .. Có khi
còn nghi là có kẻ phản động muốn phá hoại nữa
! Cho nên bác Tư, chú Hai Quới, bác Sáu Tài đều lần
lần rút lui hết vì sợ vạ lây ! Bỏ máy móc lại
cho cha con tụi nó mò thắt họng. Thằng thủ
trưởng có tới gặp con mấy lần nhưng con
cho de luôn. Kệ bà nó ! Muốn tới đâu thì tới !".
Tánh
tình thằng Rớt rất bộc trực, lại ít học
nên ăn nói "phang ngang bửa củi" chẳng cần
dè-dặt nể nang gì hết. Vậy mà ông Hai lại
thương nó ở chỗ đó. Ông thấy ở nó cái cốt
cách của người dân quê, thật tự nhiên, "ăn
sao nói vậy" nhưng xử sự "có thủy có
chung, biết tình biết nghĩa". Hồi Việt Cộng
về tịch-thâu đồn điền (sở cao su của
Chín Lúa cũng cùng chung một số phận) vợ chồng
Chín Lúa và thằng Rớt chạy qua nhà định chở
ông bà Hai đi trốn. Ông bà Hai không chịu đi. Thằng
Rớt quyết định ở lại để bảo
vệ "ông bà nội". Nó nói: Mấy thằng này tiền
hậu bất nhứt, khó tin lắm, nội ! Hồi mới
vô tuyên bố là không động tới cây kim sợi chỉ
của nhân dân, nghe ngon lành. Vậy rồi sau đó hốt hết
!". Sau này, chính thằng Rớt khuyên "ông nội"
nó đi Tây. Nó nói :"Nội già rồi. Bà đã mất. Mấy
cô chú đều ở ngoại quốc hết. Nội còn
tiếc cái gì nữa mà không chịu đi Tây phứt cho rồi
? Ở lại đây, liệu nội có làm gì được
nữa không ? Nội đi đi ! Để còn hưởng
cái an-nhàn của tuổi già. Còn hơn ở lại mà ứa
gan khi nhìn tụi nó cạo chết cây cao su, còn lên lớp dạy
lại mình cách trồng cao su, cách lấy mủ !". Đến
khi ông đi lo giấy tờ để xin xuất cảnh,
thằng Rớt lái Honda đưa ông lên lên xuống xuống
thành phố. Và cuối cùng, trong lúc ngồi trên xe ca
đưa ông lên phi trường, nó kề tai nói nhỏ :"Nội
đi rồi, chắc con không ở lại đây lâu
đâu. Con sẽ vô khu đi kháng chiến phục quốc".
Ông bỗng nghe như xương sống của ông đứng
thẳng lên, máu trong người chảy mạnh hơn,
hơi thở thật sâu thật dài .. Ông cầm lấy tay
thằng Rớt, ráng sức già bóp thật mạnh. Chắc
nó phải hiểu rằng ông đồng ý với nó. Chắc
nó phải hiểu rằng ông đặt hết niềm tin
vào nó và chúc nó thật nhiều can đảm để dấn
thân. Nhưng chắc nó không thể hiểu rằng trong cái
siết tay đó ông còn ngầm cảm ơn nó đã cho ông
thấy rằng tinh thần bất khuất của người
dân miền Nam vẫn còn được luân lưu tiếp
nối. Ông nói với nó mà tưởng chừng như nói với
chính mình :"Bây giờ, ông thấy chẳng còn gì thắc mắc.
Ông đi được rồi đó, Rớt !". Ở
phi trường, trong lúc ông theo luồng người bước
vào bên trong, ông nghe thằng Rớt nhắn vói, giọng thật
to thật rõ: "Chừng yên nơi yên chỗ rồi, nội
nhớ viết cho con ít chữ cho con yên lòng, nghe nội !".
Câu nói chẳng có gì hết nhưng lại làm ông xúc động
đến rớt nước mắt. Ông có cảm tưởng
như thằng "cháu nội" đó thật sự là
ruột thịt của ông và nó đang gởi ông đến
một nơi an toàn để rảnh tay "lo chuyện lớn",
chuyện mà người già như ông không còn đủ sức
để gánh vác. Ông nhìn lại thấy thằng Rớt thật
mạnh khỏe, thật hiên-ngang, nổi bật trong rừng
người đưa tiễn. Ông gật gật đầu
trả lời nó rồi tiếp tục bước vào trong
mà có cảm tưởng như vừa nhìn thấy, ở
phía sau, một chân trời đang mở rộng ..
Ông
Hai qua nhà tắm súc miệng rửa mặt, rồi vào nhà bếp
kiếm cái gì bỏ bụng. Trên bàn ăn, Kim có dằn một
miếng giấy chữ viết hơi to để ông
đọc mà khỏi phải mang kiếng lão :"Hột
gà để sẵn trong cái chảo nhỏ. Bánh mì trong four.
Ba hâm cà phê sữa trong micro-ondes, nhớ vặn nút qua nấc
thứ ba. Trưa, có cơm trong nồi điện, thịt
kho rau sống trong frigo. Hôn ba.". Sáng nào cũng có miếng
giấy dặn-dò từa-tựa như vậy, nhứt là
cái điểm "nấc thứ ba trên micro-ondes". Bởi
vì hồi mới qua, ông đã làm trào sữa ở trong
đó ! Mấy đứa con đã chỉ thật kỹ, "làm
như vầy .. vặn như vầy .. rồi đợi
nghe một tiếng keng là xong, nhưng coi chừng phỏng
tay". Ông đã áp dụng đúng mấy cái "như vầy
như vầy" nhưng khi nghe cái keng ông mở cánh cửa
lò micro-ondes thì .. sự đã rồi ! Ông đã chùi lau rất
kỹ vậy mà chiều về Kim cũng thấy. Vậy
là mỗi sáng, có màn dặn-dò khi cần nấu sữa nhớ
để nấc số 3 ..
Ông
ngồi ăn trứng chiên mà bỗng nghe thèm tô bánh canh của
con Tư Liếu, con gái Sáu Tài thợ máy ở đồn
điền (Sáu Tài có "nghề tay trái" là đờn
ghi-ta cổ nhạc, nên đặt tên con là thằng Xang, thằng
Xừ, con Liếu, con Xê ..). Tô bánh canh của con Liếu
thơm phức, nước trong veo, sợi bánh tròn đều
trắng phau phau không dai không bở, thịt heo vừa mềm
xắt không mỏng không dầy. Đặc biệt là mỗi
miếng đều có đủ thịt mỡ và da. Chỉ
cần nhai vài cái là đủ thấy cái thi vị của
cuộc sống nằm hết trong răng trong nướu
! Hàng bánh canh của con Liếu đặt nép dưới
mái hiên của tiệm nước thằng Tỷ, người
Việt gốc Hoa. Tiệm này không có bảng hiệu,
nhưng vì nằm ngay dưới gốc cây điệp thật
lớn nên người ta gọi là "quán Cây Điệp".
Nhưng riết rồi khách hàng chỉ gọi trổng bằng
"Cây Điệp" hay "Thằng Tỷ" là hiểu
ngay cái tiệm nước đó. Có lẽ tại vì chung
quanh không còn cây điệp nào khác và chắc cũng không còn "thằng
Tỷ" nào khác bán quán cà-phê trong cái tỉnh lỵ nhỏ
xíu này ! Điểm đặc biệt là ở đây còn giữ
nguyên nét "cổ điển" của tiệm cà phê :
bàn gỗ vuông vuông đóng thô sơ, ghế đẩu mặt
tròn, trên bàn có ống đũa bằng sành và hai chai bằng
sành loại có vòi như bình trà, một đựng xì-dầu
một dấm đỏ (Để phân biệt, thằng Tỷ
có chấm một chấm sơn đỏ trên cái nút dẹp,
cũng bằng sành, của chai dấm. Nhưng khách hàng
không cần để ý tới điểm đó bởi vì
đã có thói quen đưa vòi lên mũi hửi trước
khi sử dụng). Cái bếp nằm ngay phía trước. Ở
đó, nấu mì hủ-tiếu pha cà-phê bán thuốc lá và thâu
tiền. Trên quầy có để hộp tăm xỉa
răng và một hộp quẹt máy cột dính vào một
cây đinh bằng sợi nhợ dài .. để khách hàng
đốt thuốc mà khỏi mang nó đi luôn !
Hồi
đó, ông Hai có cái thú dậy thật sớm lái xe xuống "Cây
Điệp" uống cà-phê để nghe cái mùi tiệm
nước nó đánh thức từ từ khứu giác và vị
giác. Thật là đặc biệt, cái mùi tiệm nước.
Mà phải là tiệm nước thuộc "loại cổ-điển"
mới có cái mùi đó. Mùi ngây ngấy của bàn ghế gỗ
thấm dầu mỡ lâu ngày mặc dù vẫn được
lau tới lau lui. Mùi béo ngậy của giò cháo quảy bánh
tiêu vừa mới chiên xong để trong dĩa trên bàn. Mùi
nước lèo phất qua mỗi lần thằng Tỷ mở
nắp để múc chan lên tô mì hay tô hủ-tíu. Và đặc
biệt là mùi cà-phê mà tía thằng Tỷ lược bằng
dợt vải trong mấy cái siêu bằng sành da láng màu vàng sậm.
Cà-phê do tía thằng Tỷ pha trộn và rang lấy theo "bí
quyết gia truyền" - có phun rượu trắng và "áo"
bưa Bretel - nên thơm một cách .. mời mọc ! Chen
vào những thứ mùi đó, lâu lâu có mùi khói than trong bếp,
nồng nồng cay cay .. Thật là thú vị "cái mùi tiệm
nước" buổi sáng sớm, khi mặt trời
chưa ló dạng, khi bên ngoài không khí còn ướt lạnh
sương đêm. Cái mùi đó nghe "thật ấm",
làm cho hớp cà-phê đầu ngày càng thêm đậm đà ..
Đối với ông Hai, cái mùi tiệm nước đó
cũng mang nét quê hương như mùi đống un, mùi
rơm mùi rạ, mùi bông lài bông bưởi bông cau .. Những
thứ mùi mà dù đi xa mấy cũng không bao giờ quên và
dù thời gian cách biệt mấy cũng vẫn còn nhớ
rõ. Làm như nó thấm ở đâu trong xương trong tủy
.. mà chỉ có trong kiếp lưu vong, con người mới
nhận thấy rõ sự hiện diện của nó thôi.
Ông
Hai thay đồ ấm rồi xuống đi bộ chậm
chậm quanh hồ. Giờ này cũng vắng người.
Trên khoảnh đất trống cạnh hồ, một bé
gái tóc vàng cỡ tuổi thằng Tí đang chơi một
mình với quả bóng to. Phía sau nó, trên một băng gỗ,
ba bà người Pháp vừa đan áo vừa nói chuyện với
nhau, trong nắng. Ông Hai dừng chân gần đó, đứng
hút thuốc cạnh bờ nước nhìn bầy thiên nga trắng
phau bơi trên mặt hồ nhẹ nhàng như những
đám bông gòn bị gió đưa đi. Trời đã sang
xuân nên cây cối quanh hồ trổ chồi non mươn
mướt. Cỏ xanh được cắt xén kỹ, trải
dài từ đồi nhỏ qua đồi to. Rải-rác dọc
theo chân đồi là những khoảnh đất trồng
bông đủ màu sắc. Mùi cỏ mới cắt thoang thoảng
trong không khí, ông Hai hít một hơi dài sảng khoái. Bỗng
một vật gì chạm nhẹ vào chân ông. Nhìn xuống thì
ra là quả bóng của con bé tóc vàng. Ông nhìn nó, nó cười
với ông. Thấy thương quá ! Ông bèn đá bóng về
phía nó, nó vỗ tay nhảy lên vui mừng. Rồi chận
bóng đá trở lại, nhưng vì còn vụng về nên
bóng đi xéo xéo làm ông Hai phải chạy vài ba bước mới
chận kịp. Thấy ông Hai chận được bóng,
con bé lại vỗ tay thích chí. Vậy là ông Hai với nó
đá qua đá lại một lúc. Bỗng con bé giao bóng lệch
đi khá xa. Ông Hai cố sức chạy theo nhưng không kịp.
Quả bóng văng luôn xuống hồ. Ông vừa thở hổn-hển
vừa "bật" ra bằng tiếng Việt: "Đá
như vậy, ông nội tao giờ cũng chận không kịp
nữa !". Sực nhớ ra, ông quay về hướng
nó, nói bằng tiếng Pháp :"Mày giao bóng xa quá mà !". Con
nhỏ mếu-máo, rồi vừa khóc vừa chạy về
mấy người đàn bà. Ông thấy nó chỉ ông và ông
nghe rõ nó nói :"Thằng chệt già đó làm văng bóng của
con xuống hồ rồi kìa !". Một bà đứng
lên nhìn quả bóng đang bập-bềnh cách bờ hồ
độ một thước rồi cau mày nhìn ông. Có lẽ
bà ta thấy mái tóc bạc của ông Hai nên nét mặt hơi
dịu lại. Tuy nhiên, bà cũng đi nhanh về phía ông, vừa
chỉ chỏ quả bóng vừa to tiếng :"Ông làm gì
quả bóng của con bé vậy ? Ông đá nó xuống hồ,
hả ? Sao ông ác quá vậy ? Hả ? Hả ? Rồi bây giờ
lấy gì cho nó chơi ? Nó khóc kìa, ông thấy không ?".
Đằng xa, con bé vừa dậm chân vừa khóc la : "Trả
bóng lại đây ! trả đây ! Ư .. Ư .." Ông
Hai vừa ngạc nhiên vừa tức giận, nhưng cố
giữ trầm tĩnh để phân trần :"Không !
Không phải tại tôi.Tại con bé đó chớ !"
Người đàn bà vẫn to tiếng : "Tại nó ? Vô
lý ! Chính nó nói là ông đã làm văng quả bóng kia mà". Ông
lắc đầu, chỉ tay về hướng con bé :
"Nó đá quả bóng chớ phải tôi đá đâu ! Nó
nói láo đó !". Bà ta vẫn gân gân :"Trẻ con tuổi
đó mà nói láo à ?".Ông chưa biết phải nói làm sao
thì hai bà kia đã dẫn con bé đến "tiếp sức"
với bà thứ nhứt. Cả ba bà tranh nhau nói, tranh nhau
lý-luận để đổ lỗi cho ông Hai. Còn con bé bây
giờ đã ngồi bẹp xuống đất tiếp tục
khóc la đòi bóng !
Nghe
to tiếng, ông làm vườn đang trồng bông gần
đó chạy đến xem. Mấy người đàn bà lại
tranh nhau phân trần cho ông làm vườn. Bây giờ câu chuyện
đã trở thành như sau : ông Hai giành chơi bóng của
con nhỏ rồi đá bóng xuống hồ để .. trả
thù ! Ông làm vườn phá lên cười :"Tôi xin lỗi.
Mấy bà nói quá lời, đó ! Làm gì có chuyện như vậy
? Tôi biết ông đây mà". Rồi quay sang bắt tay ông
Hai : "Ông mạnh giỏi ? Mấy lúc sau này sao không thấy
ông đưa thằng Titi đi học ?" (Ông ta gọi
thằng Tí là "Titi") Ông Hai vui vẻ trả lời :"Cám
ơn ông, tôi vẫn mạnh. Dạo này, mẹ nó đưa
nó". Ông làm vườn à rồi quay sang mấy người
đàn bà :"Ông đây ở cao ốc số 28 . Ông
thương trẻ con lắm. Tôi biết mà. Thôi các bà yên
tâm. Để tôi vớt quả bóng cho". Mấy bà nói
"vậy à" lấy lệ rồi làm ra vẻ bận
lo dỗ về con nhỏ để khỏi phải chú ý
đến ông Hai. Ông cám ơn ông làm vườn rồi chậm
rãi đi về nhà bằng con đường tắt dẫn
lên lưng chừng đồi. Ông nghe lòng nặng trĩu và
thèm chửi thề một tiếng thật lớn !
Vào
nhà, ông lấy rượu chát uống ực một ly. Ông rất
thích rượu chát. Ngày xưa, lúc nào trong nhà cũng có
rượu chát. Bây giờ ở Pháp, các con mua cho ông loại
Chateauneuf du Pape là loại mà ông thích nhứt. Ngày nào ông
cũng nhâm-nhi mấy lần, kể cả khi ăn điểm
tâm. Ông thường nói :"Rượu chát, phải nhìn màu
nâu đỏ của nó gợn lên trong ly, phải hít nhẹ
mùi thơm của nó khi đặt vành ly lên môi. Chừng
đó mới hớp một hớp, ngậm một chút
để nghe chất rượu tròn lên trong miệng rồi
mới nuốt từ từ ..". Vậy mà bây giờ,
ông ực một ly giống như uống nước lạnh
! Để thấy "thiệt là bực mình biết bao
nhiêu" !
Qua
phòng khách, ông đốt điếu thuốc rồi ngồi
bập liên-miên. Phải chi thằng Tí đừng về nội,
giờ này nó ở trường, giờ này ông đã đến
thăm nó .. thì đâu có chuyện gì. Phải chi ông còn
đưa rước thằng Tí như dạo trước
thì ông đâu cần đi lang bang .. Phải chi "con Kim nó
nói thiệt để mình biết tại sao nó không để
mình đưa rước thằng Tí" .. thì ông đâu có
thắc-mắc, bởi thắc-mắc nên cứ muốn
đi vòng vòng .. Phải chi hồi còn "vàng son", bay qua
đây tậu một villa to cho các con, có đất rộng
vườn to .. thì bây giờ ông đâu gặp chuyện bực
mình ở nơi công cộng .. Ờ .. mà phải chi miền
Nam đừng bị Việt Cộng chiếm đoạt
.. thì ông đâu trắng tay để phải lưu vong
như vầy .. Phải chi .. Phải chi .. Ông Hai thở
dài, dụi điếu thuốc rồi đưa hai tay vuốt
tóc như muốn phủi xuống những cái "phải
chi" đang đè nặng trên đầu. Ông nghe ở kẽ
mấy ngón tay dính vài sợi tóc. Đưa ra trước mặt,
nheo mắt nhìn : sợi tóc nào cũng trắng phau như
cước.
* *
Đêm
đó, sau khi đưa cha vào giường nằm giữa
hai lớp drap, Kim vừa tấn mí couette vừa hỏi :
-
Ba có đồ giặt không ?
-
Có. Cái quần với cái áo sơ-mi máng trên cửa đó,
con.
Kim
cầm lấy quần áo thọc tay vào mấy túi để
coi "ông già có để quên gì trong đó không". Từ
trong túi quần, Kim móc ra một cái đồng hồ
đeo tay cũ kỹ. Ngạc nhiên, Kim hỏi :
-
Ủa, Đồng hồ nào đây ?
-
Đồng hồ của ba, à ..
-
Còn cái đồng hồ Seiko điện tử mà thằng
Út mua tặng ba đâu rồi ?
Ông
Hai nghiêng đầu về phía cái bàn con đặt cạnh
đầu giường :
-
Đó ! Nó nằm cạnh cái đồng hồ reo, đó. Ba
vẫn đeo nó chớ !
-
Vậy ! Còn cái này ?
Ông
Hai ngập-ngừng một lúc :
-
Ờ .. thì .. ba giữ nó làm kỷ niệm.
Kim
cầm đồng hồ ngắm nghía rồi cau mày :
-
Ủa ! Đồng hồ gì mà chạy kỳ vậy ? Bây
giờ mà nó chỉ 5 giờ !
-
Giờ Việt Nam đó con.
Kim
phì cười :
-
Ở bên Pháp mà ba còn giữ giờ Việt Nam làm gì ?
-
Để .. nhớ ..
Tiếng
"nhớ" nghẹn ngang ở cổ. Mặt ông Hai bỗng
nhăn lại. Ông nhắm nghiền mắt để kềm
cảm-xúc. Trong một khoảnh-khắc, bao nhiêu hình ảnh
hiện về trong đầu ông thật nhanh, chớp tắt
không thứ-tự lớp-lang : bà Hai, cái nhà, sở cao-su, tiệm
nước thằng Tỷ, con nhỏ tóc vàng đòi bóng, thằng
Tí đứng sau hàng rào lưới kẽm, thằng Rớt
tiễn ông ở phi-trường .. Một lúc sau, ông mở
mắt nhìn con gái, giọng buồn vô hạn :
-
Ba bỏ xứ ba đi, ba chẳng còn gì để đem
theo hết. Chỉ có cái đồng hồ đó là còn giữ
được chút gì của Việt Nam, lâu lâu lấy ra dòm
coi mấy giờ ở bên đó. Để còn có cái gì nó nhắc
nhở. Và để thấy làm như mình vẫn chưa cắt
lìa cuống rún đối với quê hương. Con hiểu
không ?
Kim
cảm động nhìn cha. Mái tóc trắng càng quá trắng
trên nền áo gối màu xanh sậm. Bao nhiêu nếp nhăn
trên mặt trông thật rõ nét vì niềm xúc động dâng
lên. Kim thấy thương cha vô cùng. Cô đem cái đồng
hồ cũ của cha đến đặt một cách
trang trọng cạnh đồng hồ Seiko, rồi cuối
xuống vừa hôn lên trán cha vừa nói :
-
Ba đừng buồn. Ở đây còn có tụi con, còn có thằng
Tí ..
Ông
Hai sẵng giọng :
-
Thằng Tí ! Thằng Tí ! Có mỗi chuyện đưa
rước nó đi mẫu giáo mà con còn giành thì lấy gì biểu
ba vui đây ?
Kim
quỳ xuống cạnh giường, nhìn cha một lúc rồi
nói :
-
Chừng thằng Tí đi nội về, con sẽ giao nó lại
cho ba đưa rước.
Ông
Hai ngóc đầu lên, tròn mắt ngạc nhiên :
-
Thiệt hả con ?
Kim
gật gật đầu nghiêm giọng :
-
Nhưng mà với điều kiện là ba đừng cho nó
uống rượu và ba phải bớt hút thuốc đi.
Trong trường, người ta than phiền là sáng nào thằng
nhỏ vào đó cũng nghe mồm miệng hôi rượu
và quần áo tẩm mùi thuốc lá. Vậy, ba có hứa không
?
Ông
Hai nhớ lại sáng nào khi ông uống rượu chát ông
cũng cho thằng Tí hớp một hớp giống như
khi ông ăn vặt ông thường đút cho nó vài miếng.
Thằng nhỏ khoái lắm, nhảy tưng tưng. Hình ảnh
đó thật là dễ thương. Bây giờ thì .. thôi !
Điều quan trọng là được tiếp tục
đưa rước thằng cháu ngoại. Nghĩ như
vậy nên ông nheo mắt mỉm cười :
-
Hứa chớ sao không, con.
Bỗng
cái cười của ông méo đi. Ông chớp chớp nhanh
mắt. Không kịp rồi! Hai giọt nước mắt
đã lăn xuống hai bên thái dương. Kim ngạc nhiên
:
-
Ủa ! Sao ba lại khóc ?
-
Ờ .. già rồi, kỳ lắm. Buồn thì khóc đã
đành. Mà vui cũng bắt chảy nước mắt nữa
con ! Ba đang vui lắm đó chớ !
Kim
phì cười, cuối xuống hôn cha rồi đứng
lên lấy đồ giặt bước ra. Đến
ngưỡng cửa, Kim quay nhìn cha mà nghe tình thương
càng dào-dạt trong lòng. Kim đưa tay tắt đèn rồi
đóng cửa lại nhè nhẹ. Trong bóng tối, ông Hai tự
nhủ thầm :
"Rồi
mình cũng phải tìm cách cai thuốc lá nữa chớ ! Cho
con nó vui .."
Đêm
đó, ông Hai ngủ thật ngon, quên luôn rằng mình đang
nằm giữa hai lớp drap chớ không có chui vào hai lớp
mền như thường lệ !
TIỂU
TỬ
(Diễm
Kiều sưu tầm và chuyển)