Việt Nam
Quê Hương ngạo nghễ
Tin anh Nguyễn
Đức Quang bị hôn mê mấy ngày nay
đang nằm trong phòng cấp cứu. Cầu xin anh
qua khỏi.
Gửi
các bạn bài này:
Bh
Khi Bài
Hát Trở Về
(Trần Trung Đạo)
Nếu phải xếp hạng những
bài hát được sinh ra và lớn
lên cùng với thăng trầm của đất
nước, với thao thức của thanh niên, sinh
viên, học sinh, với tâm trạng của những
người lính trẻ trong cuộc chiến tranh tự
vệ đầy gian khổ ở miền Nam trước
đây, tôi tin, Việt Nam Quê Hương Ngạo
Nghễ của nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang
sẽ là một trong những bài ca được
xếp hàng đầu.
Không giống như một số
hành khúc quen thuộc trong giới trẻ trước
1975 như Dậy Mà Đi của Nguyễn Xuân
Tân, Tổ Quốc Ơi Ta Đã Nghe của La Hữu
Vang thiết tha, mạnh mẽ nhưng chỉ giới hạn
trong các phong trào sinh viên tranh đấu và
ngay khi ra đời đã bị Đảng sử dụng
cho mục đích tuyên truyền trong các
trường đại học, các đô thị
miền Nam, hay Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy chan
chứa tình dân tộc, kêu gọi người
người thương mến nhau nhưng thiếu đi
cái hùng khí, sôi nổi của tuổi trẻ,
"Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" của
Nguyễn Đức Quang không dừng lại ở nỗi
đau của đất nước mà còn
nói lên cả những bi thương, công phẫn,
thách đố của tuổi trẻ Việt Nam
trước những tàn phá của chiến tranh
và tham vọng của con người. Trong vườn
hoa âm nhạc Việt Nam, Việt-Nam-quê-hương-ngạo-nghễ
nổi bật lên như một biểu tượng
cho khát vọng của một dân tộc
đã vượt qua bao nhiêu gian nan khốn
khó để tồn tại và vươn lên
cùng các dân tộc khác trên mặt
đất nầy.
Ta như nước
dâng dâng tràn có bao giờ tàn
Đường
dài ngút ngàn chỉ một trận cười
vang vang
Lê sau
bàn chân gông xiềng của thời xa
xăm
Đôi mắt ta rực
sáng theo nhịp
xích kêu loàng xoàng.
Lời nhạc của Việt Nam
Quê Hương Ngạo Nghễ tương đối
khó nhớ nhưng nhờ cách sử dụng
ngôn ngữ trẻ trung, mạnh mẽ, tượng
thanh, tượng hình như “tiếng cười
ngạo nghễ”, “xích kêu loàng
xoàng”, “trên bàn chông hát
cười đùa vang vang” hay “Da chân mồ
hôi nhễ nhại cuộn vòng gân
tươi” đã làm cho Việt Nam Quê
Hương Ngạo Nghễ trở thành độc
đáo, không giống như những bài ca
yêu nước khác với những ý tưởng
quen thuộc và lời ca phần lớn là lặp
lại nhau. Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ
đẹp tự nhiên như một đoá lan rừng,
không mang màu sắc chính trị, không nhằm
cổ võ hay biện minh cho một chủ nghĩa
nào, không cơ quan nhà nước nào chỉ
đạo thanh niên sinh viên học sinh phải
hát và bài hát cũng chẳng nhằm phục
vụ lợi ích riêng của chính quyền,
tôn giáo hay đảng phái chính trị
nào.
Trước 1975, từ thành phố
đến thôn quê, từ các trường
trung học tỉnh lẻ đến đại học lớn
như Huế, Sài Gòn, từ các phong
trào Hướng Đạo, Du Ca đến các tổ
chức trẻ của các tôn giáo như Thanh
niên Công giáo, Gia đình Phật tử, từ
các quân trường Đà Lạt, Thủ
Đức, Quang Trung, Nha Trang đến các tổ chức,
đoàn thể xã hội từ thiện đều
hát Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ.
Sau 1975, bài hát theo chân
hàng trăm ngàn sĩ quan và viên chức
miền Nam đi vào tù. Nhiều hồi ký,
bút ký kể lại Việt Nam Quê
Hương Ngạo Nghễ đã được
hát lên, kín đáo hoặc cả công
khai, ở nhiều trại tù khắp ba miền đất
nước. Trong tận cùng của đói
khát, khổ nhục, đớn đau, Việt Nam
quê hương ngạo nghễ đã hoá
thành những hạt cơm trắng, hạt nếp
thơm nuôi sống tinh thần những người
lính miền Nam sa cơ thất thế.
Những năm sau đó,
bài hát, như tác giả của nó
và hàng triệu người Việt khác
lên đường ra biển tìm tự do. Việt
Nam Quê Hương Ngạo Nghễ lại được
hát lên giữa Thái Bình Dương
giông bão, hát lên ở các trại tị
nạn Palawan, Paula Bidong, Panat Nikhom trong nỗi nhớ
nhà, hát lên ở Sungai Besi, White Head trong những
ngày chống cưỡng bách hồi hương,
hát lên ở San Jose, Santa Ana, Boston, Paris, Oslo, Sydney
trong những cuộc biểu tình cho tự do dân
chủ Việt Nam, hát lên ở các trại
hè, trại họp bạn Hướng Đạo,
các tổng hội sinh viên Việt Nam tại hải
ngoại.
Nhạc sĩ Nguyễn Đức
Quang, trong buổi phỏng vấn dành cho chương
trình Tiếng Nói Trẻ đã kể lại
câu chuyện ra đời của Việt Nam Quê
Hương Ngạo Nghễ trong âm nhạc Việt Nam:
“…Thế bài Việt Nam Quê Hương Ngạo
Nghễ cũng vậy, nó không phải là một
bài ca tôi nghĩ là quá lớn, nhưng
lúc bấy giờ khi tôi kết thúc tập
Trường Ca vào năm 1965, cuối 1965 hay đầu
1966 gì đó, khoảng thời gian đó, 10
bài trường ca, những bài như Nỗi buồn
nhược tiểu, Tiếng rống đàn bò,
Lìa nhau, Thảm kịch khó nói v.v. những
bài nói về đất nước của
mình rất là khổ sở, tôi nghĩ
nên kết nó bằng một bài hát
có tiếng gọi hùng tráng và tha thiết
hơn. Thành ra tôi viết bài Việt Nam
quê hương ngạo nghễ một cách rất
là dễ dàng. Tất cả những ý
đó tôi đem vào hết trong bài
hát đó để nó vượt qua
cái khốn khó, vượt qua cái quê
hương nhỏ bé, nhược tiểu mà trở
thành một nước to lớn, và lòng
người cực kỳ dũng mãnh.
Viết xong bài đó
tôi nghĩ chỉ kết thúc tập Trường
Ca mà thôi, không ngờ về sau càng
ngày đi các nơi càng thấy nhiều
người ưa thích bài đó, có lẽ
đáp được ước vọng của nhiều
người, tôi nghĩ tiếng gọi đáp ứng
đúng được tiếng của nhiều
người, không riêng gì giới trẻ
đâu, cả người lớn tuổi ở
các hội đoàn về sau này, rồi
đi vào trong quân đội, đi rất nhiều
nơi. Thành ra, tôi cho đó là một
bài hát tự nó trưởng thành
nhưng khi viết tôi chỉ đúc kết cho tập
Trường Ca lúc đó mà thôi.”
Thật đơn giản và tự
nhiên như thế. Không một ông bộ
trưởng Bộ Chiêu Hồi nào đặt
hàng hay một ông tổng ủy trưởng
Dân Vận nào chỉ thị anh phải viết.
Anh viết không phải để thi đua sáng
tác hay mong mang về giải thưởng, huân
chương. Trong tâm hồn của một nghệ sĩ
chân chính, tình yêu nước bao giờ cũng
là sự thôi thúc tự nguyện. Anh viết
Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ để kết
thúc tập trường ca của riêng anh nhưng
cũng nối tiếp tập trường ca lớn
hơn của đất nước.
Sau ba mươi năm, nhiều nhạc
sĩ, ca sĩ đã trở về qua nhiều ngả,
trong nhiều tư cách khác nhau, một số
tình ca sáng tác trước 1975 đã
được nghe lại trong nước, nhưng
đây là lần đầu tiên một
bài hát đã về lại quê
hương qua ngả của trái tim, trở về
trong vòng tay nồng ấm của tuổi trẻ Việt
Nam.
Bất ngờ và cảm động,
một buổi sáng tuần trước, khi đi dạo
một vòng qua các blog Việt ngữ, tôi bắt
gặp không chỉ những mẩu tin nóng viết
vội vàng trên đường phố, những
đoạn phim biểu tình vừa mới đưa
lên YouTube, những tấm hình ghi lại cảnh
xô xát giữa đồng bào, sinh viên với
công an, nhưng còn được nghe lại
bài hát quen thuộc Việt Nam Quê Hương
Ngạo Nghễ. Tôi cảm nhận qua lần gặp gỡ
đó một niềm vui chung khi có một bản
nhạc mà các em sinh viên Việt Nam ở
California, Washington DC, Oslo, Paris, Hà Nội, Sài
Gòn cùng hăng say hát trong những cuộc biểu
tình chống Trung Quốc bành trướng
bá quyền mà không cảm thấy ngần ngại,
nghi ngờ, xa cách.
Ta khua
xích kêu vang dậy trước mặt mọi người
Nụ cười muôn đời
là một nụ cười không tươi
Nụ cười xa vời nụ cười của
lòng hờn
sôi
Bước tiến ta tràn tới
tung xiềng
vào mặt
nhân gian.
Trong số một trăm em đang
hát trong nước hôm nay có thể hơn
chín mươi em chưa hề nghe đến tên
Nguyễn Đức Quang lần nào, và nếu
có nghe, có đọc qua bộ máy tuyên
truyền của Đảng, cũng chỉ là một
“nhạc sĩ ngụy đã theo chân đế
quốc”. Biết hay không biết, nghe hay không
nghe không phải là điều quan trọng. Điều
quan trọng là bài hát đã đáp
ứng được ước vọng về
tương lai và tình yêu tổ quốc của
tuổi trẻ. Tổ quốc, vâng, không có
gì lớn hơn tổ quốc.
Văn hoá không phải chỉ
là đời sống của một dân tộc
mà còn là những gì giữ lại
được sau những tàn phá, lãng
quên. Việt Nam quê hương ngạo nghễ sau
30 tháng Tư 1975 hẳn đã nằm trong danh
sách các tác phẩm “văn hoá đồi
trụy” mà Đảng tìm mọi cách
để xóa bỏ, tận diệt.
Thế nhưng, như giọt
nước rỉ ra từ kẽ đá và như
bông hoa mọc giữa rừng gai, bài hát
đã sống sót, đã ra đi và
đã trở về. Để tồn tại, một
bài thơ, một bản nhạc cũng phải trải
qua những gạn lọc, những cuộc bỏ phiếu
công bằng không chỉ của người nghe,
người đọc dưới một chế độ
chính trị nào đó mà còn của
cả lịch sử lâu dài. Bài hát
phát xuất từ tình yêu nước trong
sáng như Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ
sẽ ở lại rất lâu trong lòng tuổi trẻ
Việt Nam hôm nay và nhiều thế hệ mai sau.
Là một người
thích tham gia các sinh hoạt văn nghệ cộng
đồng, bài hát mang tôi về thời trẻ
tuổi của mình. Tôi còn nhớ, mùa
hè 1973, khi còn là sinh viên năm thứ nhất,
Việt Nam quê hương ngạo nghễ cũng
là nhạc sinh hoạt chính của trại
hè sinh viên toàn quốc quy tụ đại diện
sinh viên các trường đại học và
cả sinh viên du học về nghỉ hè, do Bộ
Giáo Dục Và Thanh Niên tổ chức lần
đầu và có lẽ cũng là lần cuối
tại trường Thiếu Sinh Quân, Vũng Tàu.
Đêm trước ngày chia tay, chúng tôi
không ai ngủ được. Ngày mai sẽ mỗi
người mỗi ngả, chị về Huế, anh về
Đà Lạt, em về Cần Thơ và đa số
chúng tôi sẽ trở lại Sài Gòn.
Cùng một thế hệ chiến tranh như nhau, khi
chia tay biết bao giờ còn gặp lại. Những
ngày tháng đó, cuộc chiến vẫn
còn trong cao điểm.
Mỹ
đã rút quân nên máu chảy trên
ruộng đồng Việt Nam chỉ còn là
máu Việt Nam. Thảm cảnh của mùa hè
đỏ lửa chưa qua hết. Trên khắp miền
Nam, đâu đâu cũng có đánh nhau,
đâu đâu cũng có người chạy
giặc. Mơ ước của tuổi trẻ chúng
tôi là được thấy một ngày
đất nước hoà bình, một ngày quê
hương không còn nghe tiếng súng.
Đêm cuối trại hè, chúng tôi ngồi
quây quần thành một vòng tròn rộng
quanh cột cờ trường Thiếu Sinh Quân
và hát nhạc cộng đồng như để
vơi đi những vương vấn, lo âu đang
trĩu nặng trong lòng. Bài hát được
hát nhiều nhất trong đêm đó là
Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ, và khi
điệp khúc cất lên cũng là khi
chúng tôi hát trong nước mắt:
Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại
Xương
da thịt này cha
ông miệt
mài
Từng giờ qua
cười ngạo
nghễ đi trong
đau nhức
không nguôi.
Chúng ta
thành một
đoàn người hiên ngang
Trên
bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn Việt Nam triệu
con tim này còn triệu khối kiêu hùng.
Những
giọt nước mắt của tuổi sinh viên nhỏ
xuống xót thương cho dân tộc mình. Tại
sao có chiến tranh và tại sao chiến tranh
đã xảy ra trên đất nước
chúng tôi mà không phải tại một quốc
gia nào khác? Mấy tháng sau, tháng
Giêng năm 1974, bài hát Việt Nam quê
hương ngạo nghễ đã được
hát vang trên đường phố Huế,
Đà Nẵng, Sài Gòn, Cần Thơ sau khi
Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc. Những bản
tin đánh đi từ Đà Nẵng, danh
sách những người hy sinh được đọc
trên các đài phát thanh làm rơi
nước mắt. Và hôm nay, ba mươi ba
năm sau, trong cái lạnh mùa đông trên
xứ người, những lời nhạc Việt Nam
quê hương ngạo nghễ từ YouTube phát ra
như xoáy vào tim. Tôi lại nghĩ đến
các anh, những người đã hy sinh ở
Hoàng Sa tháng Giêng năm 1974, ở Trường
Sa tháng Ba năm 1988. Các anh khác nhau ở chiếc
áo nhưng cùng một mái tóc đen, một
màu máu đỏ, một giống da vàng,
cùng ăn hạt gạo thơm, hạt muối mặn,
cùng lớn lên bằng giòng sữa mẹ Việt
Nam, và cùng chết dưới bàn tay hải
quân Trung Quốc xâm lăng.
Việt Nam, sau ba mươi ba
năm “độc lập, tự do” vẫn
chưa thoát ra khỏi số phận nhược tiểu
bị xâm lược, vẫn chưa tháo
được cái vòng kim cô Trung Quốc
trên đầu. Việt Nam có một lãnh hải
dài trên ba ngàn cây số nhưng thực tế
không còn có biển. Cả hành lang
Đông hải rộng bao la từ Hải Nam đến
Hoàng Sa và xuống tận Trường Sa
đã bị Trung Quốc chiếm. Nếu vẽ một
đường cung dọc theo lãnh hải đó,
ngư dân Việt Nam chỉ còn có thể
đi câu cá ven bờ chứ không thể
đánh cá như ngư dân Trung Quốc, Nhật
Bản, Thái Lan hay các quốc gia khác trong
vùng biển Đông. Phía sau tấm bảng in
đậm “mười sáu chữ vàng” hữu
nghị thắm thiết giữa hai Đảng Cộng sản
Việt Nam và Trung Quốc là thân xác của
ngư dân Việt Nam trôi bềnh bồng dọc
các hải đảo của tổ tiên mình
để lại.
Trong suốt dòng lịch sử,
hoạ xâm lăng từ phương Bắc vẫn
là mối đe doạ thường xuyên.
Khác với các thời đại trước
đây, cái bất hạnh của Việt Nam
ngày nay không phải chỉ là mất đất
nhưng mất đất mà không đòi lại
được ngay. Cuộc kháng Nguyên lần thứ
nhất trong hàng vương tước nhà Trần
chỉ có mỗi Trần Nhật Hiệu chủ
trương “Nhập Tống” và lần thứ
hai chỉ có Trần Ích Tắc và
đám hầu tước Trần Kiện, Trần
Văn Lộng, Trần Tú Viên chủ trương
“Hàng Nguyên” nhưng ngày nay, về mặt
lập trường quan điểm, Việt Nam có đến 14 Trần Ích Tắc và 160 Trần Kiện. Trận đụng
độ giữa Việt Nam và Trung Quốc diễn
ra tại Trường Sa năm 1988 theo tác giả
Daniel J. Dzurek trong biên khảo “Xung Đột
Trường Sa: Ai có mặt trước?” (The
Spratly Islands Dispute: Who’s on First?) chỉ kéo dài
vỏn vẹn 28 phút và Việt Nam chịu đựng
hầu hết thương vong. Với một giới
lãnh đạo tham quyền cố vị và sự
chênh lệch quá xa về kỹ thuật chiến
tranh như thế, cuộc đấu tranh giành lại
hai quần đảo sẽ vô cùng khó
khăn.
Dù sao, tuổi trẻ Việt
Nam, khác với các thế hệ Tân Trào,
Pác Bó trước đây, thế hệ
Hoàng Sa, Trường Sa ngày nay có nhiều
cơ hội tiếp xúc, học hỏi và so
sánh giữa chế độ các em đang sống
với các tư tưởng tự do dân chủ,
khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhờ
đó, hy vọng các em sẽ có những chọn
lựa đúng cho mình và cho đất nước
phù hợp với dòng chảy của văn minh
nhân loại.
Trong cuộc chiến Việt Nam
dài mấy mươi năm Đảng đã sản
xuất ra không biết bao nhiêu bài hát,
bài thơ kích động lòng yêu nước
nhưng tại sao các em không đọc, không
hát nữa? Như một độc giả trong nước
đã trả lời, đơn giản chỉ
vì chúng nhạt nhẽo. Ý thức sâu sắc
đó đã được thể hiện
không chỉ trong khẩu hiệu các em hô
mà ngay cả trong những bài hát các em
hát. Sau những “Như có Bác Hồ trong
ngày vui đại thắng”, “Dậy mà
đi”, “Nối vòng tay lớn” của những
ngày đầu phong trào, các bạn trẻ
trong nước đã đi tìm những nhạc
phẩm nói lên lòng yêu nước trong
sáng, tích cực, không bị ô nhiễm,
chưa từng bị lợi dụng và họ
đã tìm được Việt Nam quê
hương ngạo nghễ.
Ta như giống dân đi tràn trên lò
lửa hồng
Mặt lạnh
như đồng
cùng nhìn về một xa xăm
Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn
vòng gân tươi
Ôm vết thương rỉ
máu ta cười dưới ánh mặt trời.
Mỗi khi nhắc đến những
khó khăn đất nước, chúng ta thường
nghe đến những “bất hạnh”, “nỗi
đau”, “tính tự ti mặc cảm”,
vâng đó là một thực tế hôm
nay, thế nhưng dân tộc Việt Nam “vốn
xưng nền văn hiến đã lâu, nước
non bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng
khác” như Nguyễn Trãi khẳng định,
không phải chỉ biết đau, biết tự ti mặc
cảm mà thôi nhưng từ những nỗi đau đã biết lớn lên bằng tự hào và kiêu
hãnh làm người Việt Nam. Chỗ dựa
tinh thần của tuổi trẻ Việt Nam hôm nay
không có gì khác hơn là lịch sử.
Không thể làm nên lịch sử mà
không cần học lịch sử. Lịch sử sẽ
là vũ khí, là hành trang trong hành
trình tranh đấu cho một nước Việt Nam
mới, cũng như để xây dựng một Việt
Nam tươi đẹp sau nầy.
Ta khuyên
cháu con ta còn tiếp tục làm người
Làm người
huy hoàng phải chọn làm người dân Nam
Làm người
ngang tàng điểm mặt mày của trần gian
Hỡi những
ai gục xuống ngồi dậy hùng cường đi lên.
Việt Nam Quê Hương Ngạo
Nghễ như giọt nước mắt bi tráng của
tuổi trẻ Việt Nam ngày nào nhỏ xuống
trên quê hương chiến tranh khốn khổ,
đã bốc thành hơi, tụ thành mây
và sau bao năm vần vũ khắp góc bể
chân trời đã trở về quê
hương qua ánh mắt của em, qua nụ cười
của chị, qua tiếng hát của anh, hồn
nhiên và trong sáng. Từ “vết
thương rỉ máu” của một dân tộc
đã từng bị nhiều đế quốc thay
phiên bóc lột, lợi dụng và hôm nay
còn đang chịu đựng trong áp bức của
độc tài đảng trị, Việt Nam quê
hương ngạo nghễ cất lên như một lời
khuyên, hãy sống và hãy vững tin
vào lịch sử, sẽ có một ngày, sẽ
có một ngày ...
Trần Trung
Đạo
(BH sưu
tầm, Tú Trần
chuyển)