Đời Có Những
Điều Vui !
(Hoàng Long Hải)
Tôi có “triết lý” sống của
tôi. Nói triết lý là theo cách
các triết gia. Nói theo giọng Bắc là
“triết ra”, nên nó phải có
“triết vào”. Còn nói theo cách
nhà văn thì đó là quan điểm sống.
Tôi không dùng cả hai tiếng đó.
Tôi có cách nhìn cuộc sống theo con mắt
của tôi.
Cách nhìn đó, bao giờ cũng
có chút vui vui, khó quên nhất là
năm tôi học đệ Tam, ở một lớp nam
nữ học chung.
Trước mặt tôi là ba bàn con
gái. Bàn thứ ba, ngay trước bàn tôi
là năm đứa con gái, con nào cũng học
giỏi, có đứa giỏi “toàn diện”.
Ấy là nói theo cách “Việt Cộng”.
Nói theo cách chúng tôi hồi đó
là môn nào cũng giỏi, cũng xuất sắc.
Tôi là học trò học hành
“ba lơi khơi”, ham vui, ham chơi. Ở lớp,
tôi không bao giờ ngồi yên một chỗ, cứ
ngọ nguậy, nhúc nhích, bị thầy cô rầy
hoài; huống gì ở nhà, làm sao ngồi
yên hằng giờ mà học bài. Dĩ
nhiên, tôi ít thuộc bài. “Thảm cảnh”
là bắt nguồn từ đó, với một
ông thầy già, khó tánh, dạy sử.
Một hôm, ông gọi tôi, cho đứng
tại chỗ, rồi hỏi:
- “Ông nào nối ngôi ông Mặc
Đăng Dung ?”
Cái nầy là chết
tôi ! Ông Mặc Đăng Dung làm vua hồi
nào tôi còn không nhớ, nói chi tới
con ông ! Tôi đứng im, giả bộ suy nghĩ.
Một con nhỏ ngồi ngay bàn trước, nhắc
chừng “Mạc Đăng Doanh”. Khổ nỗi
ba tôi tên là Doanh. Bọn trong lớp, giống
như các bậc “tiền bối” thường
đem tên cha mẹ ra đùa, chưởi
khéo nhau nên tôi tưởng lầm con nhỏ nầy
cũng thuộc loài “hỗn láo” như vậy.
Tôi trừng mắt nhìn nó. Ngồi bên cạnh
con nhỏ lúc nãy là con Long, nhìn lui
tôi. Thấy tôi trừng mắt, nó bèn
nói với bạn: “Mặc kệ nó !”
Tôi chỉ nghe được hai tiếng mặc kệ.
Tưởng là nó nhắc mình vì xưa
nay, con nhỏ nầy ít khi đùa bậy, nên
tôi nói ngay:
- “Thưa thầy, nối
ngôi Mặc Đăng Dung là Mặc Kệ !”
Bữa đó, cả
lớp được một trận cười vỡ bụng,
còn tôi thì muốn độn thổ cho rồi.
Chưa hết
đâu. Để rửa mặt mình. Những tuần
sau, tôi cố học lịch sử cho thuộc để
thầy và bạn phục chơi. Thầy lại hỏi
về việc Nguyễn Ánh trả thù nhà
Tây Sơn, tôi bèn trả bài làu
làu về việc Bùi Thị Xuân, trước
khi bị hành hình bằng cách cho voi chà,
bà lấy vải vấn quanh mình thật chặt,
sợ khi chết đi, thân thể lõa lồ. Khi
con voi xông tới, hai con bà sợ khóc ré
lên, bà an ủi và khuyên các con đừng
sợ …
Cả lớp, ai ai cũng
chỏng tai mà nghe một cách thích thú
câu chuyện bà Bùi Thị Xuân bị
hành hình. Bỗng thầy hỏi tôi:
- “Anh có biết
hai con bà Bùi Thị Xuân tên gì
không ?”
Chết ! Cái nầy
thì chết! Tôi có thấy trong bài
nói con bà Bùi Thị Xuân tên là
gì đâu ?! Bỗng “con nhỏ Mặc Kệ”
hôm trước, nhắc tôi:
- “Bùi Như Lạc.”
Tin tưởng tụi
nó đàng hoàng, không như lần
trước là do tôi lớp chớp. Vả lại,
con nhỏ nầy thuộc loại giỏi toàn diện,
cái gì nó cũng biết nên tôi rất
tin nó, nói ngay:
- “Thưa thầy, một
đứa tên là Bùi Như Lạc.”
Ông thầy già vẫn
bình tĩnh:
- “Ai nói với
anh tên Lạc ?” Một lúc, ông lại
nói: “Tôi còn không biết tên
là gì. Sao anh biết nó tên là lạc
hay đậu phụ!”
Cả lớp lại
thêm một trận cười.
Tới giờ nghỉ,
tôi cự nự “con nhỏ Bùi Như Lạc”:
“Long chơi mình đấy, đem mình ra
làm trò cười cho cả lớp.” Mấy
con bạn nó nói vô: “Có bùi thì
phải có lạc chớ còn gì nữa
?” Con gái đanh đá thật !
Và rồi tôi bỏ
học, đăng lính. Có phải vì những
trận cười đó, vì mấy con nhỏ
đó. Tôi không suy nghĩ rắc rối để
trách cứ người nầy, người nọ.
Đi lính là việc tôi chọn.
Lấy học bạ lớp
đệ Nhị trường công của ông anh,
tôi đi trung sĩ, có nghĩa là vào
trường Hạ Sĩ quan. Ra trường, tôi
được chọn về Hành Chánh-Tài
Chánh. Có lẽ máy tính điện tử
cũng có khi chạy lộn, tính sai, chớ một
người học hành như tôi, tính
tình như tôi mà về ngành Hành
Chánh-Tài Chánh là máy chạy sai
hoàn toàn chớ gì. Khi học chuyên
ngành, tôi đã khổ mà ra đơn vị,
tôi bực mình hơn.
Anh chàng thiếu
úy xếp của tôi là một anh cà chớn.
Trước hết là anh ta “Mục hạ vô
nhơn.” Anh ta đang học cao học kinh tế
thì bị động viên, nên khi vào
quân đội, anh ta chẳng khen ai gỉỏi
và cũng chẳng tôn trọng ai. Dĩ nhiên,
trong các nạn nhân của anh ta, có tôi.
Làm việc với một người mà
mình bị coi khinh, cho là dốt thì vui thế
nào được. Việc vào sở, đối
với tôi là một cực hình. Hồi
trước đi học, dù học dốt, ít
khi thuộc bài, nhưng dù sao cũng có bạn,
có đứa giỏi đứa dốt. Vả lại,
hết giờ học, giỏi dốt đều như
nhau, vui chơi với nhau. Còn đây thì
hoàn toàn khác.
Một hôm, đến
sở, tôi thấy anh thiếu úy xếp tôi
đang cãi lộn với ông thiếu tá, xếp
cao hơn. Thấy chuyện trái tai gai mắt, tôi
vào trận. Kết quả là anh ta đánh
sao lại tôi. Tôi cho một trận khiến anh ta
phải vào bệnh viện. Nhưng anh ta có
cái dù. Cái dù đó là ông
đại tá chánh sở, mà vợ ông
là chị ruột anh chàng nầy. Nhất vợ
nhì trời. Tục ngữ nói vậy. Ông
“đại tá nhất vợ nhì trời”
nghe lời vợ bèn đưa tôi ra hội đồng
kỷ luật, đuổi ra bộ binh, Sư Đoàn
1, vùng giới tuyến. Không phải sợ đi
xa, không phải sợ vùng hỏa tuyến,
nhưng quả thật là tôi bất mãn
quân đội nên tôi “can tội
đào ngũ.”
Về nhà được
vài tuần, tôi thấy ở nhà là
không xong. Ở đời, có ai ăn không ngồi
rồi mà không sinh chuyện ? Thầy thì dạy
“Nhàn cư vi bất thiện”. Rõ
ràng tôi đang nhàn cư, tuy không làm
gì bất thiện nhưng mọi việc coi như
là không xong: Ăn xong không làm gì
là không xong. Ngày ngày ngồi quán
càphê và vào tiệm bi-da là không
xong. Thanh niên tới tuổi “quân dịch
quân gà” mà không đi lính là
không xong. Không có công ăn việc
làm là không xong. Ngày ngày xin má
ít chục uống càphê để cà nhỏng
là không xong. Chưa biết tính toán ra sao
thì gặp thằng bạn cũ, hồi học tiểu
học.
Anh bạn tôi
trông oai lắm: Đầu đội mũ
bê-rê màu xanh lá cây đậm, áo
quần rằn ri màu rong cọp biển, giày
“xô” láng bóng, ngực một
hàng huy chương, vai đeo giây biểu
chương, lon hạ sĩ nhứt; đi, ngồi đứng
chững chạc, oai phong, đúng tác phong nhà
binh. Hỏi đi đâu, anh ta bảo: “Bữa nay
trình diện bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, tối
vào dinh Độc Lập dự tiệc và
lãnh quà “Chiến sĩ xuất sắc”.
Ba tháng trước, thắng một trận lớn, vừa
được huy chương vừa lên lon.
Ngồi uống
càphê với bạn cũ, tôi thấy phiền
cho số phận mình. Tại sao đời lính
tôi buồn bực vậy, mặc dù chỗ
tôi làm thì ai cũng ưa. Còn bạn
tôi, với bộ áo quần đang mặc
trên người thì đúng là vào
sinh ra tử mà anh ta vẫn vui tươi như vậy.
Tò mò, tôi hỏi bạn:
- “Tại sao mày
đi ngành nầy ?”
- “Trai thời loạn”.
Không đi ngành nầy thì đi ngành
gì ?” Bạn tôi trả lời, “tỉnh
bơ”.
- “Có nguy hiểm
lắm không ?” Tôi hỏi.
- “Nguy thì
có nguy, nhưng nghĩ cho cùng, láng cháng ở
giữa Saigon nầy, xe đụng chết hằng
ngày cũng dễ dàng vậy. Hơi đâu
mà lo. Ở đó, mình có đồng
đội. Lính tráng thương yêu nhau lắm.”
Sau cuộc gặp gỡ
đó, tôi tình nguyện đăng vào Thủy
Quân Lục Chiến. Binh chủng, người miền
Nam gọi là “Cọp Biển”, Việt Cộng
gọi một cách buồn cười là
“Lính thủy đánh bộ.”
Vào đây rồi,
tôi thấy đời có nhiều cái hay lắm.
Trước hết là anh em không bỏ nhau.
Chúng tôi đi hành quân rất thường,
có khi hàng tháng, nhưng rất lè
phè. Tuy nhiên, đang hành quân, có
súng địch nổ, không bao giờ chúng
tôi bỏ chạy, lại càng không bao giờ
bỏ đồng đội mà chạy. Phản ứng
rất nhanh, tự mình phản ứng chống lại
địch, tìm ngay một chỗ núp và phản
công. Vừa nổ súng về phía địch,
chúng tôi vừa tìm hướng súng của
bạn mình mà tìm đến nhau; yểm trợ,
bảo vệ cho nhau. Vì vậy, Việt Cộng
không mấy khi ăn được chúng tôi,
ngoại trừ khi chúng nó đông quá,
tràn ngập đơn vị. Nhưng chuyện
đó khó xảy ra vì hành quân ở
đâu, chúng tôi biết rõ tình
hình địch như thế nào ! Những
người lính như chúng tôi, sống
còn, phần lớn là nhờ vào tinh thần
ấy.
Ra đơn vị
hơn tuần lễ, tôi được thăng
lên cấp chỉ huy. Chẳng có gì
đâu. Lính tráng, phần đông tụi
nó ở nhà quê, lanh lợi hay chậm lụt,
khôn hay dại, thảy đều là dân
quê, làm sao nhạy bén, lanh lẹ như
tôi là dân Saigon. Vì vậy, sau tuần
đầu tiên, tôi được chọn làm
trưởng toán gồm ba đứa. Canh gác, phục
kính, hành quân, ăn ngủ, chúng tôi
chia phiên nhau, do tôi chỉ huy. Sau đó, nhờ
lanh lợi và kinh nghiệm, “đời binh nghiệp”
tôi lên nhanh: Tiểu đội phó, tiểu
đội trưởng, trung đội phó và cũng
từ “đơ dèm cùi bắp”, tôi
lên binh nhứt, hạ sĩ, hạ sĩ nhứt rồi
tôi bị thương.
Ngày đơn vị
tan hàng ở miền Trung, tôi đang nằm bệnh
viện ở Saigon. Tôi ức lòng lắm.
Đánh giặc gì mà lạ kỳ vậy.
Súng chưa nổ đã chạy. Mấy năm
lính, đơn vị tôi có bao giờ vậy
đâu. Súng nổ là phản ứng ngay, nếu
như địch nổ súng trước. Có chạy
là chạy đuổi theo chúng nó, đuổi
riết khiến chúng nó phải quăng súng
mà chạy, mình lượm về báo
cáo, không lấy huy chương thì ít ra
cũng bằng tưởng lệ. Làm gì mà
bỏ súng để cho địch đuổi
mình vô tới Saigon ?!
Ông Dương
Văn Minh đầu hàng rồi, tôi từ
quân y viện về nhà, vết thương
đã lành hẳn. Một tháng sau, hai người
bạn thân tới rủ tôi đi “phục quốc”.
Chỉ huy chúng tôi là đại úy Dũng,
Biệt Động Quân. Đi thì đi, sợ
gì ! Nỗi ấm ức tháng Tư chưa
đánh đã chạy còn nặng lòng
tôi lắm. Tôi phải đi cho nhẹ lòng
mình.
Vô tới rừng
Long Khánh, vài tuần lễ, tôi thấy mọi
việc đều không xong. Điều quan trọng nhất
là không có ai tiếp tế. Súng thì
do chúng tôi tìm lượm các súng cũ,
nhưng đạn thì không đủ, không
có ai tiếp tế, chuyển vận tới.
Lương thực cũng không, nói chi tới
quân trang, quân dụng. Tụ tập nhau trong rừng,
chúng tôi tự tìm lấy cái ăn trong
những nhà dân gần rừng. Nhưng dân cũng
chẳng có gì để ăn, huống gì
chúng tôi. Những gì đại úy Dũng
nói đều sai hết, không có. Tôi
đoán đại úy Dũng cũng vì tinh thần
mà hứa hẹn vậy chớ ông ta cũng chỉ
có một tấm lòng đối với đất
nước như anh em chúng tôi vậy thôi.
“Trai thời loạn” hồi chế độ cũ
chưa sụp đổ xem ra dễ dàng hơn
cái “Trai thời loạn” đời bây giờ
nhiều lắm.
Dĩ nhiên, chúng
tôi bị Việt Cộng đánh đuổi, một
số bỏ về, còn lại bị bắt. Trong số
bị bắt có tôi. Với chính quyền mới,
gọi là “cách mạng”, tôi can tội:
Phục quốc. Phục quốc là phục hồi tổ
quốc của mình, sao gọi là can tội ?
Nó cũng giống như các anh em cùng trại:
Người can tội đại úy, người can tội
thiếu úy, người can tội trung sĩ Cảnh
Sát, người can tội cán bộ Xây Dựng
Nông Thôn, v.v… Nhìn chung, đó là
những tội buồn cười.
Ở trong trại, bọn
“can tội” như chúng tôi cũng
không chịu ở yên. Phần đông
chúng tôi có máu văn nghệ, ưa
hát nhạc vàng, cũng có khi hát nhạc
“cách mạng Trường Sơn Đông,
Trường Sơn Tây” và không ít
đứa ưa ca cải lương.
Cũng bởi cái
máu văn nghệ đó, chúng tôi tham gia
đội văn nghệ để trình diễn
nhân dịp tết năm 1978. Tối 30 tết,
trình diễn xong, sáng mồng một tết,
được nghỉ lao động, chúng tôi tự
động tổ chức - Có nghĩa là
không được phép của trại -
chúng tôi tổ chức “Mẹ Việt Nam
đi thăm các con đang bị tù”.
Chuân, thanh niên đẹp trai, trắng trẻo,
trông như con gái, người chúng tôi
thường gọi đùa là “Người
đẹp đái đứng” mặc áo tứ
thân, khăn mỏ quạ, quần lĩnh đen, giả
làm “Mẹ Việt Nam” đi thăm từng
nhà, hết nhà nầy qua nhà khác. Mỗi
nhà chứa khoảng 150 tù nhân. Gần một
chục nhà như vậy, “Mẹ Việt Nam”
đi thăm từng nhà, có ban nhạc thổi
kèn đánh trống rước mẹ đi. Tới
nhà nào, mẹ cũng đứng trên ghế
cao, chúc các con sức khỏe, chóng trở về
sum họp với gia đình, sống cuộc đời
dân chủ, tự do… Các con của mẹ
đứng lên hò reo cám ơn mẹ, rồi
hát lời chào mừng: “Mẹ Việt Nam
ơi ! Mẹ Việt Nam, chúng con xin nguyền
…”
Cả buổi sáng
hôm đó chúng tôi vui lắm. Sau khi mẹ
đi thăm các con về, chúng tôi mang
quà gia đình thăm nuôi, đem ra nấu
nướng ăn uống với nhau. Bọn Công An Việt
Cộng chỉ đứng quanh ngoài hàng rào,
chẳng tên nào động tĩnh gì, chẳng
tên nào la mắng, hạch sách gì
chúng tôi, ngay các tên công an quản
giáo cũng vậy.
Ngày thứ ba, một
số người được gọi lên văn
phòng để “làm việc”. Những
người được gọi đi làm việc nầy
phần đông là những người hàng
đầu trong việc tổ chức “Mẹ Việt
Nam đi thăm và chúc tết các con”.
Trước hết là ông bầu văn nghệ, tức
là anh trưởng ban, rồi tới người
đóng vai mẹ Việt Nam; ban nhạc thì gồm
có người đánh trống và người
thổi kèn clarinette rước mẹ đi, mấy
anh lăng xăng chạy hiệu. Tất cả những
người được gọi đi đều
không về, vào cát-xô (cachot) hết cả.
Tên trại trưởng
là một tay cáo già trong nghề giữ
tù. Những ngày đầu, y bất động,
không có thái độ gì hết, nhưng
sau đó thì y bắn tỉa dần dần.
Sáng mồng năm
đi lao động như thường lệ. Các
đội tập họp ở tại sân, nhưng khi
trên loa, cán bộ công an gọi từng đội
đứng lên đi lao động thì Huề,
nguyên là binh nhứt Nhảy Dù, cũng
“can tội phục quốc” như tôi, đứng
lên kêu gọi anh em không đi lao động
hôm nay nếu trại không thả những người
bị bắt mấy hôm vừa rồi ra khỏi
cát-xô. Không khí căng thẳng ngay
lúc đó.
Bọn Công An
báo động, thổi còi, đánh kẻng,
chạy lui chạy tới rần rần và cuối
cùng, chúng dàn hàng ngàng trước
mặt chúng tôi, súng đặt trên vai, sẵn
sàng nhả đạn.
Bấy giờ thì
tên trại trưởng vào, đứng khá
xa chúng tôi, chung quanh nó có mấy tên
Công An cầm súng đứng bảo vệ
nó. Y cầm micro nói chuyện với chúng
tôi, rằng việc mấy người bị bắt
nhốt không dính líu gì tới việc
vui chơi hôm tết cả. “Việc các anh
vui xuân, chúng tôi rất hoan nghênh !” Sở
dĩ họ bị giữ lại là vì có
thư tố cáo họ có âm mưu trốn trại.
Sự việc đang được điều tra.
“Chúng tôi hứa sẽ điều tra rất
nhanh, chỉ trong vài hôm là kết thúc. Nếu
quả thật thư tố cáo là sai lầm,
chúng tôi sẽ cho họ về ngay với các
anh. Không có gì các anh phải lo lắng
cho họ. Tôi nhân danh trại trưởng hứa
với các anh như vậy. Bây giờ các anh
phải đi lao động. Không thể có một
ngày chúng ta ăn mà không làm.
Đó là chế độ xã hội chủ
nghĩa. Lao động là để trả lại
công lao cho nhân dân đã chăm sóc
nuôi nấng chúng ta …”
Anh em xôn xao, giao động,
và rồi cán bộ gọi từng đội, lần
lượt từng đội đứng lên đi lao
động hết. Cuối cùng, ở giữa
sân, chỉ còn lại một mình … Huề.
Bốn tên Công An lực lưỡng đi
vào, vây Huề lại, vật anh ta xuống,
còng tay, dẫn đi … Một anh tù như Huề,
đói ăn, ốm nhom, yếu sức, chống sao lại
lũ côn đồ.
Cuộc đấu tranh
coi như xong. Những người bị nhốt, thay
vì được tha, đều bị chuyển trại
hết, mỗi người một nơi khác nhau.
Bây giờ thì ai cũng biết rõ ràng trại
trưởng đúng là thằng đệ nhứt
hạng nói láo.
Sau 5 năm “tù
phục quốc”, tôi cùng được tha một
lần với Huề, chúng tôi cùng về
Saigon.
Trách nhiệm đối
với tổ quốc, đồng bào, tôi coi
như thế là xong, trả nợ rồi. Hơn bốn
năm lính, năm năm tù, cộng chung gần
mười năm. Mười năm mồ hôi nước
mắt, gian khổ và xương máu. Còn
gì nữa mà thắc mắc. “Em ơi
sáu mươi năm cuộc đời …”
tiêu pha hết mười năm gian khổ và nguy
hiểm nhứt. Vậy là thôi nhé, tổ quốc
đừng kêu gọi gì tôi nữa nhé !
Ông Kennedy bảo rằng đừng hỏi tổ quốc
làm chi cho ta, hãy hỏi ta làm gì cho tổ
quốc. Câu nói hay quá nhưng xem ra, so với
câu ấy, tôi chưa đòi hỏi tổ quốc
làm gì cho tôi cả; tổ quốc có hỏi
tôi làm gì thì tôi đã làm rồi
đấy: Mười năm, quá đủ !
Nói vậy chứ mỗi
ngày ra đường, thấy đồng bào, thấy
xã hội, đất nước, tôi cũng
đau lòng lắm ! Việt Cộng đã biến
tổ quốc thành ra tổ … cò. Dễ hiểu
thôi. Chúng nó có gọi là tổ quốc
đâu ! Chúng nó gọi theo giọng Bắc
là tổ cuốc đấy. Ở Saigon làm sao thấy
chim cuốc, nhưng từ nội thành ra ngoại
thành, từ thành thị ra thôn quê, từ
đồng bằng lên núi cao, đi đâu cũng
thấy toàn là cuốc. Đi đâu người
ta cũng thấy khẩu hiệu, biểu ngữ: “Lao
động là vinh quang”. Người ta thêm
vào một cái đuôi cho đủ lệ bộ,
sổ sách: “Lao động là vinh quang, cuốc
là số 1”.
Tôi từ trại
tù về sống ở Saigon trong cái khung cảnh ấy
đấy. Và làm gì để sống
bây giờ ?
Ban đầu, ngày
ngày tôi ra ngoại ô, tìm một chỗ
đất hoang để trồng khoai mì, một nghề
tôi học được trong cái gọi là
“trại học tập cải tạo” mà
không gọi là trại tù.
Sống dưới chế
độ Việt Cộng, người dân có một
kinh nghiệm rất vững chắc, để “tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
xã hội chủ nghĩa” là phải biết
trồng khoai mì, biết ăn khoai mì, và chế
biến khoai mì … Công việc nầy, trong trại
tù cải tạo, đã thành bài
hát: “Tổ quốc ơi ! Ta yêu người
mãi mãi. Từ trận thắng hôm nay, ta
xây dựng bằng mười.” Bài hát
ca ngợi “Mùa xuân đại thắng”
và nhắc lại lời hứa của “Bác
Hồ muôn vàn kính yêu của …
Nông Thị Xuân” là “Thắng giặc
Mỹ, ta xây dựng bằng mười ngày
nay.” Đây là bài hát … nịnh.
Người ta cải biến thành một bài
hát với đầy đủ ý nghĩa và
thực tế xã hội như sau: “Tổ quốc ơi ! Ăn khoai
mì mãi mãi. Từ trận thắng hôm nay,
ta ăn độn dài dài …”
Trồng, thu hoạch
và ăn khoai mì, chuyện đó 30 giây.
Nhưng chế biến khoai mì thì “phát
huy sáng kiến”; ngoài luộc, nướng,
chúng tôi mài, hấp để làm
bánh khoai mì. Ăn mãi luộc hay bánh cũng
chán, khi có thăm nuôi, có người cắt
ít lát “con lạp xường” (1) bỏ lên mặt. Bánh
chín, ăn chung với lạp xường. Một
hôm, Đỗ Trọng Khiêm, người chuyên
nấu nước và nấu ăn cho anh em khi ở
ngoài bãi lao động, tuyên bố: “Khi
làm bánh khoai mì với “con lạp xường”,
bánh chín rồi, gắp con lạp xường
mà ăn, ngon lắm.” Nghe kỹ lời phát
biểu của Khiêm, có người nói:
“Đ. m. nói trật lất không. Ăn lạp
xường không ngon thì ăn cái gì
ngon.”
Việc trồng mì
của tôi hoàn toàn thất bại. Khi mới
bắt đầu thu hoạch được, đã
có củ thì một hôm, đạp xe lên
tới rẫy, tôi thấy đã có người
thu hoạch giúp mấy bụi. Tức mình,
hôm sau, lên rẫy thật sớm thì tôi bắt
gặp một thằng bé đang ăn trộm khoai
mì của tôi. Bị nắm đầu, thằng
bé khóc lóc, xin xỏ. Còn bực tức,
tôi kéo thằng bé ra đầu con lộ nhỏ.
Anh Công An đi ngang, hỏi tôi chuyện gì,
tôi nói theo bài bản: “Thằng nầy
cướp công cách mạng, phá hoại
tàn sản xã hội chủ nghĩa !”
Chưa hiểu hết ý tôi nói, anh Công An
lại hỏi, tôi lại nói: “Nó ăn
trộn khoai mì của tôi !”
- “Ăn trộm khoai
mì của anh, sao anh gọi là cướp công
cách mạng ?” Anh Công An lại hỏi.
Tôi giải thích:
- “Nghe theo nghe lời
kêu gọi của cách mạng, tôi lên
đây tăng gia sản xuất. Nó ăn cắp
thành phẩm của tôi, không cướp
công cách mạng thì gọi là gì
?”
Anh Công An bỏ
đi.
Tôi hỏi thằng
bé:
- “Tại sao mày
ăn cắp khoai mì của tao ?”
- “Tội nghiệp
tui chú ơi ! Mấy đứa em tui đói
quá, tui không có cách chi. Chú tha cho tui
!”
Hỏi ra thì thằng
bé có cha đi tù, mẹ đi bán
buôn mấy ngày chưa về. Tới nhà
thì thấy thằng bé có ba đứa em,
đứa nào cũng như đứa nào, vừa
đói, vừa ốm, vừa dơ dáy. Thấy cảnh
mấy đứa bé, tôi nhớ tới cuốn
phim “Người ăn cắp bánh mì”
tôi đã xem hồi còn đi học. Tôi
bèn nói với thằng bé: “Chú cho mầy
hết. Giữ mà ăn dần dần, coi chừng
người khác tới ăn trộm. Ba mày
là bạn tao !”
Chắc chắn thằng
bé không thể nào hiểu được
câu cuối tôi nói. Nhưng tôi là
tù mới được tha, ba nó là tù
chưa được tha. Như vậy, tôi với ba
nó là bạn chớ còn gì nữa.
Tôi đạp xe ra về, lòng nửa vui nửa buồn,
suy nghĩ lan man. Nếu nói ai là tù của chế
độ nầy thảy đều là bạn
tôi; như vậy thì bạn tôi đông lắm,
kể tới hàng triệu người. Tôi
có tới hàng triệu bạn. Đông
quá ! Đông quá ! Không sao gặp hết,
biết hết được, đâu đủ khoai
mì để giúp họ.
Bây giờ tôi phải
đạp xích lô chớ chẳng có con
đường nào khác. Gia nhập đội ngũ
“dân biểu” (2)
là điều tôi không muốn, nhưng bất
cứ trong hoàn cảnh nào, đời cũng
có nhiều điều vui.
Chẳng có vợ
con gì, tôi nhẹ gánh … tang bồng. Chiều
chiều, xong khoảng mười cuốc xe, có đủ
ít tiền tiêu, giúp mẹ một ít mua gạo,
tôi đạp xe vào vườn hoa trước
sân vận động Cộng Hòa tham gia cuộc
tranh tài đạp xích lô … hai bánh.
Xe xích lô có
ba bánh, chúng tôi tranh tài đạp
xích lô hai bánh. Nghĩa là chúng
tôi ngồi trên chiếc xe xích lô ba
bánh, nhưng nghiêng cái xe, chỉ cho chạy
có hai bánh: Một bánh trước và
bánh sau. Ai đạp chậm mà đi được
xa là … ăn tiền. Chuyện nầy tôi
đã từng nghe trong trại tù, nhưng
đó là chuyện đáp máy bay. Một
ông thiếu tá lái Cô Lan 19, (L-19) tuổi,
trước khi đáp xuống phi trường
Tân Sơn Nhứt, ông ta được
đài kiểm soát không lưu báo cho biết
là máy bay của ông đã bị bắn
bay mất một bánh xe. Ông phi công bảo cứ
yên tâm, ông ta đáp được. Hai
bên phi đạo, xe cứu hỏa chực sẵn. Nếu
máy bay đáp xuống, bị lật cháy, xe
cứu hỏa can thiệp ngay. Tuy nhiên, phi công cho
chiếc máy bay nghiêng cánh bên cao bên thấp
khi đáp xuống phi đạo, giống như
chúng tôi chạy xe xích lô hai bánh vậy.
Khi máy bay hết đà, cái chân cụt
không có bánh xe hạ xuống, đụng
đất và chiếc máy bay ngừng hẳn, chỉ
hơi xoay ngang một chút. Ông phi công ló
đầu ra khỏi máy bay và cười.
Khi nghe chuyện đạp
xích lô hai bánh, nhớ câu chuyện
đáp máy bay bằng cái chân què,
tôi tham gia cuộc vui. Tôi phải là người
giỏi nhất bọn, và nhận giải dài
dài. Có ngày tôi ăn nhiều cuộc
đua, có khi tiền ăn nhiều hơn tiền chạy
xe cả một ngày.
Bọn chạy xe đua
chúng tôi, không ít tay có máu mê
cờ bạc. Do đó, tiền xe chạy một
ngày không đủ để nướng vào
một cuộc đua xe. Đời có nhiều điều
vui, nhưng tới đây, nhiều tay thua cháy
túi, không có tiền đem về nuôi vợ
con thì điều vui trở thành điều buồn.
Vì nó là điều buồn nên tôi bỏ
đi, không tham gia nữa.
Cũng may, trong thời
gian chạy xe xích lô và đua xích lô
hai bánh, tôi có được ít tiền,
thỉnh thoảng đến thăm và giúp Huề,
người đứng lên đấu tranh chống Việt
Cộng trong vụ chúng bắt nhốt cachot những
người chủ trương việc tổ chức
“Mẹ Việt Nam đi thăm các con bị
tù” hồi tết mấy năm trước.
Khi có chương
trình định cư ở Mỹ dành cho
các tù cải tạo, Huề và tôi cũng
như một số anh em Phục Quốc cũng hy vọng
được đi, nhưng cuối cùng chúng
tôi bị Mỹ từ chối. Lý do khá buồn
cười, chương trình nầy chỉ dành
cho những ai “can tội” tướng tá,
“can tội” đại úy, trung úy,
giám đốc, trưởng ty, cảnh sát đặc
biệt, hạ sĩ quan an ninh tình báo, còn
như chúng tôi “can tội phục quốc”
thì bị Mỹ cho ra rìa. Tôi không so
sánh chúng tôi với những người
được đi Mỹ theo chương trình H.O.
nhưng chúng tôi cho rằng Mỹ kỳ cục, bởi
vì chống Cộng mà bị tù thì
chúng tôi là những người chiến
đấu đến cùng, khi thế cùng lực
kiệt, súng không còn đạn và bụng
đói không có gì ăn.
Mẹ tôi vẫn buồn
vì tôi tuổi đã lớn mà chưa
có vợ. Tôi đã trên ba mươi tuổi
rồi, trong khi mẹ tôi nói tôi lấy vợ
trễ, sau nầy kẹt lắm: “Cha già con mượn”.
Nhưng tôi lấy vợ ra làm sao nhỉ ? Lấy
ai ? Biết ai yêu mình mà lấy. Và
dù có ai yêu mình đi nữa thì chồng
phải nuôi vợ, theo như tục lệ của
người Việt. Tôi lấy gì nuôi vợ
trong khi tôi chưa nuôi nổi tôi ? Còn
như để vợ tự đi làm lấy,
có khi phải thay cả tôi nuôi con thì
tôi lại không vui ? Không vui thì lấy vợ
làm gì ? Tôi yêu những điều vui.
Vì vậy, người ta lấy vợ để vui
thì tôi không lấy vợ là để
vui. Giải thích điều đó với mẹ,
mẹ tôi mắng tôi là ích kỷ đấy
. Tôi có ích kỷ không nhỉ ?
Sau khi bỏ nghề
“dân biểu”, tôi phải kiếm một
nghề nuôi thân. Và tôi đi bán
bánh chưng. Nghề nầy dần dần đưa
tôi vào con đường … văn nghệ.
Trước hết, mỗi khi dừng xe đạp
bán bánh ở một xóm nào, tôi vừa
bán vừa ca vài câu .. vọng cổ
đã học lóm trong mấy năm tù cải
tạo: “Chúc Anh Đài ơi ! Nếu một
mai nương tử còn thương tôi thì
hãy ra nơi Nam Sơn tiểu lộ …”
Đó là câu trong tuồng “Lương
Sơn Bá, Chúc Anh Đài.” Hoặc: “Rừng
chiều hiu quạnh trời đêm sương
giá lạnh, chốn quê nghèo thêm chạnh
nỗi niềm riêng …” là câu trong
bài ruột của Út Trà Ôn, hoặc
“Cái con nhỏ, đau làm sao, sau đít
có cọng rau …”. Dĩ nhiên câu ca nầy
không nên ca trong các xóm di cư, dễ bị
ăn đòn. Nhờ biết ca mà khách
hàng của tôi ngày càng đông, khiến
tôi “phát triển thị trường” của
tôi ra các vùng ngoại ô xa xôi.
Bây giờ tôi
không còn đi xe đạp mà “tiến vững
chắc một bước”. Tôi đi bán
hàng bằng chiếc xe Honda mua lại của đứa
em bà con đi Mỹ theo cha mẹ. Phía yên sau,
tôi làm một cái giàn sắt, có thể
cột lên đó ba thúng bánh chưng
đầy nhóc, và “trong nắng sớm ban
mai, đố ai biết có gì đổi khác
?” (3) Cũng con đường
mỗi ngày quen thuộc, cũng những bụi
cây, bãi cỏ bên lề, tôi dong ruổi
trên con ngựa sắt già không biết mệt,
cùng với tiếng máy nổ đều đều.
Rồi tôi dừng lại ở một ngã ba đầu
xóm và lên giọng lanh lãnh, rao bán
bánh chưng:
“Ai có tiền,
có quyền, bóc lột.”
Ngừng một
chút. Tôi lại lên giọng rao hàng:
“Có tiền,
có quyền, bóc lột.”
Rao hàng là
phương cách kiếm sống của người
bình dân lao động, nhưng không phải
không có nghệ thuật. Ở Saigon, khi còn nhỏ,
tôi nhớ lời rao hàng của nhiều người
khá hay, lôi cuốn người nghe. Người
rao hàng không rao hết các tiếng trong
câu, họ chỉ nhấn mạnh tới những tiếng
quan trọng. Ví dụ có ông già Tàu
thường rao hàng ở đại lộ Đồng
Khánh như vầy: “Tàu Lam Dang về chưa
? Tàu Lam Dang mắc kẹt.” Trong đêm khuya,
nghe tiếng hỏi tàu về chưa hay chưa về,
cũng buồn lắm đấy ! Viết thì rõ
như vậy và chỉ là cách suy
đoán, còn tiếng rao nghe liền hơn, rền
hơn và không rõ. Chẳng có tàu Nam
Vang nào về tới đường Đồng
Khánh cả. Rõ ra, lời rao của ông
già Tàu là: “Đậu phụng rang hột
dưa, đậu phụng rang bánh kẹp.”
Hồi nhỏ rất
thường ăn quà, nên tôi từng nghe
và có kinh nghiệm về việc rao hàng. Nhờ
đó, trong tiếng rao của tôi chỉ rõ ở
những tiếng “quyền”, “tiền”,
“bóc lột”. Nhưng tiếng bóc
thì phát âm khá nhanh. Khách hàng chỉ
cần nghe “Tiền, quyền, lột” là biết
ngay tôi.
Cách rao hàng
như thế làm cho nhiều người có cảm
tình với tôi. Một hôm đang bán
hàng thì có một ông già đến
đứng bên tôi cười cười, hỏi
nhỏ:
- “Này, có
đi học tập chưa mà rao như vậy.
Chưa thông suốt đường lối cách mạng
đó nghen.”
Tôi lại hát
đùa:
- “Chú ơi ! Mới
năm năm mà đời chưa tơi tả, vừa
tha ra thì đã hát … móc
lò.”
Ông già cười,
trả tiền, lấy bánh bỏ đi.
Cũng có chị
đến mua bánh chưng, bảo tôi:
- “Tôi bóc lột
là bóc lột cái bánh chưng chớ
không bót lột nhân dân đâu chú
!”
Và dĩ nhiên, một
hôm Công An bắt tôi về trụ sở
xã. Anh trung sĩ Công An còn trẻ, nhưng mặt
mày khôn ngoan lắm, điều tra tôi, bằng
giọng Bắc kỳ 75:
- “Anh lói ai
bóc nột ?”
- “Thưa anh !
Tôi nói ai có tiền mua bánh chưng của
tôi thì có quyền bóc lột.”
- “Anh lói
bóc nột nà cái gì ?” Anh ta sừng
sộ.
Đã từng đối
đầu với Công An trong suốt năm năm
tù cải tạo, tôi bình tĩnh:
- “Thì bóc lột
cái bánh chưng. Không bóc lột làm
sao ăn ?”
Tên Công An vẫn
hậm hực:
- “Anh muốn
lói móc nò cán bộ bóc nột chứ
gì ?”
- “Đó là
anh nói. Tôi không nói vậy. Cán bộ
là người của cách mạng, phục vụ
nhân dân. Anh không nên nói xấu cán
bộ. Còn nói móc lò là không
đúng. Người Nam như chúng tôi phổi
bò, ruột để ngoài da. Cái gì
không ưa thì nói thẳng, thẳng như ruột
ngựa, nói huỵch toẹt. Nói móc lò
là không ngay thẳng. Người xứ khác mới
hay nói móc lò.”
- “Anh lói người
xứ khác nà ai ?” Tên Công An vẫn
hung dữ.
- “Người xứ
khác là người không phải sinh đẻ
ở Saigon như tôi, là người khác xứ
… Nam
Bộ.”
- “Anh chia rẽ
dân tộc đấy nhá !” Tên Công An
lại kết tội tôị
- “Tôi là
người bán bánh chưng, sống nhờ
vào đồng bào, nhân dân. Tôi
đâu có cái quyền gì mà chia rẽ
dân tộc. Ai có quyền mới lấy cái
quyền đó mà chia rẽ nọ kia. Tôi
có quyền gì đâu !” Tôi giải
thích.
- “Thế tại
nàm sao anh rao hàng như thế. “Có quyền,
có tiền, bóc nột.” Tên Công An vẫn
cố tìm cách kết tội tôi.
- “Anh nói sai rồi.
Tôi nhắc lại câu tôi rao hàng nè:
“Có tiền, có quyền bóc lột.”
Có tiền mới có quyền bóc bánh
tôi. Sao anh nói ngược lại: “Có quyền,
có tiền.” Tôi lại giải thích.
Tên Công An vẫn chống chế:
- “Bán bánh chưng thì rao “Ai mua
bánh chưng”. Anh bày đặt “có tiền,
có quyền.”
- “Anh nói vậy
là sai. Bây giờ là thời kỳ đất
nước đổi mới. Cái gì cũng phải
đổi mới cho đúng đường lối
chính sách của đảng và nhà nước.
Đảng
và nhà nước nói phải đổi mới
mới theo kịp các nước khác. Không
đổi mới thì tụt hậu hoài. Tôi
rao như thế là theo đúng đường lối
chính sách. Rao “Ai mua bánh chưng”
thì đổi mới cái gì ?”
Tên công An làm thinh.
Từ nãy giờ, tên đại úy
trưởng Công An xã, tuy làm việc nhưng
vẫn lắng nghe tôi đối đáp với
anh Công An Bắc Kỳ. Tên trưởng người
Nam Bộ xem ra cũng dễ tính hơn, bèn can thiệp:
- “Thôi. Tôi cho anh về. Nhớ là
đừng có hành động gì quan hệ tới
chính trị. Tới chính trị thì
chúng tôi có muốn giúp anh cũng
không giúp gì được. Phiền lắm
!.”
Tôi cũng mệt với tên trung sĩ
Công An. Tuy nó chịu thua lý tôi, nhưng
kinh nghiệm trại tù cho thấy bọn Công An Bắc
Kỳ nầy ghê lắm. Có lần anh Trịnh
xuân Chính, tốt nghiệp đại học
sư phạm, cử nhân Pháp văn, chuyên
viên phủ tổng thống, chung đội với
tôi, trốn trại bị bắt, bị điều
tra; học hành như thế mà cũng phải
nói: “Một anh thiếu úy chế độ
cũ của mình ngày xưa thua một tên
trung sĩ Công An Bắc Kỳ bây giờ.
Chúng nó sâu sắc, lắc léo và thủ
đoạn lắm.” Nhớ câu nói của anh
Chính, tôi cũng hú hồn.
Nhưng tôi đâu có sợ. Nó
không làm gì được tôi thì
tôi cứ thế mà tiến hành.
Hồi nầy, nhờ cách rao hàng
“đổi mới theo chính sách”, tôi
bán được lắm. Thỉnh thoảng, tôi
lại thăm Huề, cho anh ta ít tiền, anh bị bệnh
bại liệt, nằm một chỗ, rất đáng
thương.
Em của Huề bây giờ làm nghề sửa
radio, TV. Thương tình tôi rao hàng khản cổ,
anh ta ráp cho tôi một cái cassette cũ,
có emplie, có loa. Cái loa tôi gắn trên
cái giàn sắt. Có khi vừa chạy xe,
tôi vừa phát loa, có khi dừng ở một
ngã ba, ngã tư trong làng, tôi phát loa
rao bánh. Em của Huề ghi vào băng cho tôi
những bản nhạc của Vô Thường - nhạc
vàng không lời - Sau bản nhạc là tới
câu rao “Có tiền, có quyền, bóc lột.”
Xong câu rao, nhạc Vô Thường lại vang
lên thánh thót.
Tuy nhiên, bài đầu tiên của
băng cassette, tôi biểu em của Huề ghi âm
cho tôi bản “Biệt Kinh Kỳ” của Lam
Phương. Tôi rất thích bài nầy, từ
khi còn đi học. Chính bài hát nầy
thúc đẩy tôi đăng vào Thủy
Quân Lục Chiến, giúp tôi tìm lại
nguồn vui trong trại tù cải tạo, và
bây giờ trên con đường thiên lý
… bán bánh chưng.
Tôi thấm thía với lời ca của
bài hát: Hễ mỗi khi “dzô,
dzô” với bạn bè là tôi nhớ
câu “cạn chén ly bôi”. Hễ tới
câu “Giã từ trường yêu …”
là tôi nhớ tới các bạn học cũ.
Hễ “Ngày mai đã đi xa rồi
…” là tôi nhớ tới những ngày
hành quân ở Vùng 2, Vùng 1. Và hễ
“Giữa đoàn hùng binh có tôi đi
hàng đầu” thì tôi nhớ trong trại
tù chúng tôi hát đùa là
“Có tôi đi đầu hàng” …
và cũng nhớ đại tướng Dương
Văn Minh.
Rồi trên con ngựa sắt già, tiếng
máy xe nổ bành bạch, tôi bấm nút mở
băng cassette, nghe những âm thanh đầu tiên của
bản nhạc không lời “Biệt Kinh Kỳ”.
Và trí tôi hát thầm theo lời nhạc.
Tôi âm ư tiếng hát của tôi và
nhớ những kỷ niệm cũ, lòng tôi vui
lên và thấy hứng khởi với một
bài hát cũ đã 50 năm: “Bạn
ơi ! Quan hà xin cạn chén ly bôi …”
Quả thật, “cạn chén” thì đời
vẫn còn nhiều điều vui.
Hoàng Long Hải
--------------------------------------------------------------------------------
(1) “Con lạp xường”:
Trong trại tù, thiếu thịt nên
chúng tôi thường bắt cào cào,
châu chấu, rắn, v.v… để ăn, thường
là nướng ăn ngay tại bãi lao động.
Đem về trại, bị xét ở cổng, dễ
bị tịch thu. Thấy chúng tôi ăn như vậy,
cán bộ thường tỏ vẻ kinh. Có
cán bộ nói: “Con gì cũng nướng
ăn !”
Một hôm, Đỗ Trọng Khiêm nấu
nước giải khát cho toàn đội,
có người bạn tù nhờ anh nướng
giúp cái lạp xường vừa được
gia đình thăm nuôi tiếp tế cho. Khiêm
làm như nướng các con vật thường
bắt được: xỏ qua một cái que, để
trên lửa. Bỗng có anh cán bộ Công
An đi tới, thấy vậy, hỏi:
- “Này, anh kia, anh nướng con gì đấy
?”
Khiêm làm bộ tỉnh, trả lời:
- “Thưa cán bộ, tôi nướng
“con lạp xường” !
Anh cán bộ vừa bỏ đi, vừa cằn
nhằn: “Con gì cũng nướng ăn. Con lạp
xường mà cũng nướng ăn.” Từ
đó, trong trại nảy sinh một danh từ mới:
“Con lạp xường”
(2) Dân biểu: Dân biểu đạp xe đi
đâu thì đi tới đó. Tiếng gọi
đùa nghề đạp xích lô, một nghề
phổ biến cho tù cải tạo, sau khi được
tha.
(3) Một câu trong bài
“Nhành Lúa Mới” (Sách Việt Văn Đệ Thất,
Đệ Lục của Nguyễn xuân Hiếu và
Trần mộng Chu)
(Bai Chuyen)