“TÔI BIẾT THẾ
NÀO ANH CŨNG ĐẾN !”
(HUY PHƯƠNG)
“Trong một trận chiến xẩy ra vào
thời Đệ I Thế Chiến, một chiến binh bị
thương nặng không rút theo đơn vị
mình về lại phòng tuyến được,
phải nằm lại một vùng đất không
người đầy bom đạn. Một đồng
đội của anh, vì tình chiến hữu, muốn
xin phép viên chỉ huy rời hầm chiến đấu
để phóng người ra chỗ nguy hiểm
dìu bạn mình về, nhưng người chỉ
huy từ chối lời thỉnh cầu đó
vì lý do họ đang ở trong một tình
trạng rất nguy hiểm mà người lính trẻ
đi cứu bạn có thể mất mạng. Thừa lúc cấp chỉ huy không để
ý, người lính rời chỗ ẩn nấp,
chạy băng qua phòng tuyến không người,
đến nơi người bạn bị thương.
Mặc dầu dưới hỏa lực dầy
đặc, anh cũng đã đến nơi người
bạn bị thương nằm và tìm cách
dìu bạn về phòng tuyến của mình.
Trên đường trở lại, anh
kéo người bạn bị thương đằng
sau anh và đã bị trúng một phát
đạn vào người. Dùng hết sức
lực trong nỗi đau đớn tận cùng, anh vừa
bò vừa kéo theo người bạn
về phòng tuyến mình. Khi cả
hai cùng rơi xuống giao thông hào, anh quay lại
định nói với bạn điều gì
đó và kinh hãi nhận ra bạn mình
đã chết từ lúc nào.
Viên chỉ huy giận dữ nói:
-“Tôi đã bảo anh đừng liều mạng
làm một việc điên rồ như vậy,
anh thấy không ? Giờ
anh bị thương mà bạn anh cũng đã
chết. Anh đã làm một việc vô ích !”.
Người lính trẻ bị thương thều
thào đáp: -“Thưa Trung Úy, việc ấy
đáng làm lắm chứ ! Khi
tôi đến thì anh ta chưa chết và anh
đã nói với tôi:- Jim,
tôi biết thế nào anh cũng đến !”
“Tôi biết thế nào anh cũng
đến !” Câu nói ngắn gọn
nhưng đầy ý nghĩa. Tình chiến hữu
đẹp đẽ biết bao ! Người
lính tên Jim đã bất tuân lệnh cấp
chỉ huy để lăn mình
đi cứu bạn. Anh biết bạn
mình đang chờ và sự chờ đợi ấy
sẽ kinh khủng như thế nào khi người
lính bị thương ấy biết mình đang
bị bỏ rơi giữa một “vùng đất
không người”. Jim có thể
hy sinh tính mạng của mình để chứng
tỏ cho một chiến hữu biết không hề bị
đồng đội bỏ rơi”.
Đây câu chuyện của ông Robert L.
Funseth, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ,
thương thuyết gia của chính phủ Hoa kỳ
trong việc giúp hàng nghìn cựu tù
nhân chính trị được đến định
cư tại Hoa Kỳ, trong bài nói chuyện với
gia đình tù nhân chính trị Việt Nam
vào tối ngày 28 tháng 7 năm 1990 tại
Virginia, tại bữa cơm “Đồng Tâm
và Hội Ngộ” chào đón những
người tù “cải tạo” đầu
tiên đặt chân đến Mỹ. Từ
câu chuyện của người lính tên Jim,
ông Funseth đã tỏ sự hối tiếc do sự
chậm trễ của chính phủ Hoa Kỳ trong việc
thương thảo khó khăn với chính phủ
CSVN đã kéo dài 8 năm, nhiều tù
nhân đã chết trong trại tập trung của
Cộng Sản hoặc sau khi ra tù. Nhưng với những
việc làm của ông, ông Funseth tin rằng,
trước khi gục ngã, nhiều người
tù “cải tạo” đã tin rằng họ
đã không bị bỏ rơi, và
chương trình nhân đạo này
đã dìu dược bao nhiêu người tuyệt
vọng giữa “vùng đất không người”
về được một nơi chốn an toàn.
Thật ra điều kinh khủng ở trong các
trại tù không phải là bị bỏ
đói, lao động khổ sai hay bị hành hạ
mà chính là thấy tháng ngày vô vọng,
và nỗi đau đớn thấy mình bị bỏ
quên, mất hết lòng tin về những chiến
hữu hay những đồng minh đã kề vai
sát cánh cùng nhau ngày trước. Chúng ta cũng biết chính sách của
nhà tù Cộng Sản là cô lập người
tù với thế giới bên ngoài để họ
không còn trông mong, hy vọng gì nữa.
Bà Ginetta Sagan, một tù nhân của Phát
Xít Đức đã nói rằng chế độ
lao tù Cộng Sản đối với
tù binh miền Nam
không khác gì Phát Xít. Khi phỏng vấn
hằng nghìn cựu tù nhân “cải tạo”
để làm một bản tường trình về
chế độ lao tù Cộng Sản, bà
đã kinh hãi nhận ra rằng nỗi khổ của
những người tù trong các trại tập
trung này không phải là bị đối xử
khắc nghiệt mà vì hoàn toàn bị cô lập, cắt
đứt với thế giới bên ngoài, để
họ không còn hy vọng, không còn niềm
tin gì nữa.
Hiện nay nỗi khổ đau của hàng chục
nghìn thương phế binh VNCH không phải chỉ
do sự đói nghèo, tủi nhục mà do
cái cảm tưởng mình đã bị bỏ
quên. Biết bao nhiêu tướng lãnh, cấp
chỉ huy và đồng đội ngày trước
đã làm được gì cho những
người bất hạnh ở lại để họ
có thể nói như người lính bị
thương kẹt lại giữ chiến trường,
nói với người bạn tên Jim trong câu
chuyện trên: “Tôi biết thế nào anh cũng
đến !”
Cũng nhờ trong chúng ta có những
người đã có lòng và biết
nói lời “Cám ơn anh, người
thương binh VNCH” mà có những người
bạn thương binh của chúng ta, trước khi
qua đời đã có đôi chút hạnh
phúc khi nghĩ rằng mình chưa bị bỏ
quên.
Hải ngoại hiện nay không quên những
người dân thấp cổ bé miệng đang
bị bóc lột và đàn áp đến
tận cùng ở quê nhà, những người
đang cần đến tự do, dân chủ và
nhân quyền. Chúng ta cầu mong sao, một
này nào đó, những người này
có thể nói một lời như trong câu
chuyện người lính trẻ cứu bạn-“Tôi
biết thế nào anh cũng đến !”
Huy Phương
(Bai Chuyen)