QUÊ NHÀ, QUÊ
NGƯỜI
(Huy Phương)
Những bản tin như hồi trống
trận
Thúc lòng ai nỗi nhớ
quê nhà
Những hình ảnh như
nghìn mũi nhọn
Đâm vào lòng những
đứa con xa.
(Huy Phương)
Nói đến quê nhà, quê người
là nói đến tấm thân lưu lạc,
tha hương. Sao bỗng dưng một ngày nọ, bồng
bế nhau đến xứ này. Thoạt đầu
là lạ nước lạ non, bây giờ
đâu cũng là nhà, nhiều khi quên
mình đang sống trên đất khách. Sang
đây thoạt đầu như cây trồng đất
lạ, chưa quen thổ ngơi, lá còn héo,
thân còn gầy, riết rồi cũng đâm
chồi nẩy lộc.
Người bạn của tôi sang định
cư tại Hoa Kỳ đã gần hai mươi
lăm năm, con đàn cháu đống, đứa
cháu ngoại cũng đã vào đại học.
Trong khoảng thời gian này, anh chị có
công ăn việc làm khá, tậu được
nhà cửa, xe cộ và lẽ cố nhiên toàn
gia cũng đã có quốc tịch của xứ
này. Anh sống, thở, ăn mặc, làm việc,
du hý như một người bản xứ, cũng
có thể con anh cũng đầu quân hy sinh
và chiến đấu cho đất nước
này, nhưng xem ra chẳng có ai xem anh hay gọi
anh là một người Mỹ. Người bản xứ
xem anh là một người thiểu số nào
đó đến sinh sống ở đây,
đôi khi dưới con mắt kỳ thị, dù
anh có cố gắng càng ngày càng cho ra Mỹ.
Phải chăng như vậy nên anh vẫn gọi
nơi này là “quê người” ?
Thế thì "quê nhà biết ở
nơi đâu ?"
Từ ngày anh bỏ nước ra đi,
“quê nhà” gọi anh là những tội
đồ, phản quốc chạy theo bọn đế quốc
để chống phá tổ quốc. Một thời
gian khá lâu sau, anh được người ta gọi
là “Việt kiều”. Thương quý anh
hơn theo miệng lưỡi nhà buôn thì
người ta gọi anh một cách văn
chương bóng bẩy là “khúc ruột
nghìn dặm” nếu anh đem được
đồng tiền về để “xây dựng
đất nước”. Nghe đến thành ngữ
“khúc ruột nghìn dặm”, ai mà
không mủi lòng rơi lệ, nghĩ cùng
chung một dòng máu, ai mà nỡ chia cắt
khúc ruột theo cái nghĩa “đoạn
trường” xót xa biết là ngần
nào, cho nên ruột phải liền với ruột
! Không biết ai đã mang tâm lý mỉa
mai đặt ra câu ngạn ngữ “đồng tiền
liền khúc ruột”. Thật là đểu
giả, phũ phàng, ai lại đi so sánh
tình thịt da, máu mủ với chuyện lý
tài, lợi lộc.
Lúc thù hận, khinh ghét và thêm
chút ganh tỵ thì người ta gọi anh
là bọn “tha phương cầu thực” nghĩa
là đi xứ khác để kiếm miếng
ăn, lúc cần ve vãn thì gọi anh là
“Việt kiều yêu nước”, “lá
lành đùm lá rách”, “bầu
ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng
khác giống nhưng chung một giàn”.
Điều mâu thuẫn chính là nơi
“quê người”, sao khi trở lại nơi
này, dù là đi du lịch ở xa về, hay
từ cả lúc từ “quê nhà” trở
lại, sao chúng ta bỗng cảm thấy yên ổn
trong lòng như chúng ta trở lại ngôi
nhà thân yêu của chúng ta vậy. Vậy
thì đi và về đâu là một nghĩa
như nhau ! Những người dù đang sống ở
“quê người” mà lòng vẫn
vương vấn chuyện “quê nhà”, với
bao nhiêu nỗi xót xa. Không một ngày
nào là không theo dõi chuyện quê
hương. Chuyện con cháu chúng ta phải bỏ
xứ ra đi lấy chồng xứ lạ, trẻ vị
thành niên sang Kampuchea
bán thân, ở Mã Lai có đàn
bà Việt Nam
làm điếm. Chuyện lương dân bị bọn
cướp ngày bức hiếp, tiếng trống
đánh trước cửa quan kêu oan không
vượt qua được bức tường dày
điếc của chế độ. Chuyện những
trang thanh niên tài hoa tuấn tú của đất
nước bị còng tay trước cường quyền.
Chuyện quan quyền tham ô, nhũng lạm, đục
khoét công khố, vung tiền qua cửa sổ trong
khi dân không có cháo mà ăn.
Đành lòng sao khi chúng ta thức ăn
dư thừa phải đổ thùng rác, sữa
tươi trong tủ lạnh quá hạn, sợ thịt,
sợ trứng trong khi ở quê nhà những đứa
trẻ đang còn bươi móc trong đống
rác mỗi ngày, những bà mẹ nhấp
nhem đôi mắt vét trong nồi cơm những hạt
cuối cùng. Năm vừa qua, chính phủ Việt
Nam “hồ hởi” loan báo số tiền Việt
Kiều gởi về giúp quê nhà đã
lên đến 7 tỷ
rưỡi đô la,
đã vượt con số tiền của di dân Mễ
gởi về giúp đồng bào của họ. Ở
các thành phố đông người Việt
cư ngụ, các công ty chuyển tiền càng
ngày càng ăn nên làm ra, một đại
lý nhân thành năm bảy. Trông cái cảnh
những bà cụ chỉ có tiền già
mà số tiền mang đến gởi lên đến
số nghìn, số tiền này gom góp từ
tiền trợ cấp, tiền con cháu chu cấp. Tiền
này không phải chỉ gởi về cho Saigon mà cho cả Hà Nội, Hải
Phòng, Sơn Tây hay Hà Nam Ninh để cứu
đói, cứu nghèo hay cho nở mặt nở
mày với quê hương, bà con ruột thịt,
có “thân nhân ở nước ngoài”.
Không tuần nào “quê người”
không có gây quỹ, lạc quyên, không
giúp người đói thì cũng giúp
người nghèo, không giúp thuốc men
thì cũng sách vở. Nào là người
cùi, mù mắt, vá môi, nào là lụt
lội, mưa bão. Mỗi chuyện sập cầu Cần
Thơ cũng đã làm rúng động
lòng người hải ngoại. Dù ở tha phương phải
cầu thực để có miếng ăn, ở
quê người không ai quên quê nhà. Trong khi ở quê người, đồng
bào ruột thịt góp từng đồng mua từng
ký gạo cứu đói, gởi cho kẻ neo
đơn, người già không nơi nương
tựa, thì ở quê nhà, Nông Đức Mạnh
nhân chuyến viếng thăm quốc gia đại
ác “Chí Phèo” Bắc Triều
Tiên, đã biếu người anh em 20,000 tấn
gạo để tỏ tình “vô sản
công nông”. Những nỗi lo nghĩ ưu
tư của kẻ tha phương xứ người
đôi khi trở thành vô nghĩa và phi
lý.
Máu chảy ruột mềm, đây mới
là nỗi đau thực sự của người hải
ngoại nhìn về những người xấu số
trong nước, tuy không đến nỗi nhịn
ăn nhịn mặc, nhưng cũng đã chia cơm
xẻ áo với người kém may mắn hơn
mình. Nhờ tấm lòng của “quê
người”, “quê nhà” mới có
số tiền hơn 7 tỷ, số tiền mà miền
Nam trước đây không có đủ để
chống đỡ, giữ vững miền nam. Đối
với Cộng Sản, hải ngoại cứ chửi bới,
đả đảo, biểu tình bao nhiêu cũng
được, miễn là những người
này cứ về Việt Nam như đi chợ, đồng
tiền vẫn cứ tuôn về quê nhà đều
đều là tốt. Cứ nhìn cung cách
chính quyền o bế, tuyên dương, gắn
“mác” Việt Kiều yêu nước cho những
nhân vật đã “tiếp máu” cho chế
độ trong nước, chúng ta sẽ thấy
rõ đường lối và chủ trương
của khúc ruột “quê nhà” ra sao !
Người miền Nam thua Cộng Sản miền Bắc
ở cái ác, cái tráo trở. Bây giờ
quê người thua quê nhà ở chỗ sống
vì lòng nhân ái, không thù hận,
không thể quay mặt đi để khỏi
nhìn đồng bào đói khổ. Bồi
dưỡng cho thân thể đang mang bệnh ung
thư thì đương nhiên ung thư càng
phát triển, chưa
ai nỡ diệt ung thư bằng cách giết
luôn mạng sống con người. Cuối cùng chúng ta
đành bó tay, thúc thủ như một
ngày nào đã buông súng thua trận.
Lưỡi dao “quê nhà” xuyên suốt
trái tim hải ngoại, đau đớn mà ngọt
ngào, biết cách nào mà chống đỡ.
Huy Phương
(Bai Chuyen)