MỘT NÉN
HƯƠNG CHO HUẾ
(HUY PHƯƠNG)
“Xin gọi trăng soi khe
Đá Mài
Thời gian rêu phủ mảnh đầu
ai
Bãi Dâu đau xót hồn
Gia Hội
Phú Thứ tóc vương trảng
cát dài”.
(Huế Oan Khiên- Huy Phương)
Sau biến cố Tết Mậu Thân, tôi trở
lại Huế nhiều lần để theo những toán
đi đào xác người từ những hố
chôn tập thể. Thành phố là một
đám tang vĩ đại, và
không khí u buồn, uất nghẹn như bao
trùm cả mọi nhà. Nhà cha mẹ tôi ở
trong khu thành nội Huế, mỗi ngày khoảng
năm giờ sáng tôi đã bị
đánh thức dậy với những tiếng
chuông mõ của cha tôi trước bàn thờ
Phật đèn nến lung linh và mùi
hương trầm ngào ngạt. Không phải
riêng gia đình tôi mà mọi nhà trong
xóm, vào giờ này đều thức dậy
để cầu kinh niệm Phật. Tiếng kinh âm
vang một điệu trầm buồn cùng tiếng
mõ nghe râm ran trong khoảng thời gian trời
chưa sáng, tôi hình dung ra như có hằng
nghìn vong hồn oan khuất đang về đâu
đây giữa bóng tối, trong nội cỏ
ngàn cây, đứng nghe lời kinh siêu
thoát.
Huế có những lăng tẩm
âm u, thành quách rêu phong, cổ kính. Huế
có những con đường rợp bóng cây
không một bóng người. Huế có những
đêm tối, nhang khói lập lòe, có con
đường mang tên Âm Hồn, có ngôi
miếu gọi là miếu Âm Hồn. Huế
có nhiều am miếu được dựng lên
khắp nơi, có những ngôi mộ vô danh ở
ven đường. Ở đây, hình như
người sống chen lẫn với
người chết, hiện tại lặng lẽ chen lẫn
với quá khứ mịt mù, mà không hề
thấy tương lai. Kinh thành này
đã trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch
sử, những cửa thành cao, những hào
sâu đã bao lần tắm máu của
quân sĩ và lương dân. Oan khuất
nghe chừng chưa tan và những linh hồn uổng
tử như còn lảng vảng ở đâu
đây.
Huế không những đã nghèo
đói, lại chịu cảnh tai
ương của bão lụt, Huế còn là
nơi nhận chịu cảnh chết chóc,
xương phơi máu đổ.
Huế với ngày thất thủ
kinh đô, dân chúng chạy loạn, tràn
ra cửa thành đạp lên nhau mà chết. Huế với Mậu
Thân xác người chồng chất trong những
hố hầm tập thể. Huế với những
ngày cuối tháng 3-1975, biển Thuận An loang máu quân dân.
Đêm 22 tháng 5 năm Ất Dậu (1885),
trước thái độ ngang ngược của
Tướng Pháp De Courcy, quân lính của
Tôn Thất Thuyết đã tấn công
tòa Khâm Sứ và đồn Mang Cá của
quân Pháp nhưng bất thành. Rạng
sáng ngày 23 (5 tháng 7-1885), quân Pháp phản
công bằng hai hướng quân, một từ
đồn Mang cá, một từ tòa Khâm Sứ
băng qua sông Hương tiến đánh Đại
Nội. Khoảng 7 giờ sáng vua Hàm Nghi và
tam cung, lục viện thoát ra bằng cửa
Chương Đức phía Tây, rời khỏi
kinh thành bằng cửa Hữu, qua làng Kim Long,
lên chùa Linh Mụ, và sau đó chạy ra
Tân Sở, Quảng Trị. Trong những giờ
phút này, dân chúng, binh sĩ cùng voi ngựa
hốt hoảng cố chạy thoát, chen nhau ra mấy
cửa thành, đạp lên nhau mà chết. Về
phía Pháp thiệt hại coi là nhẹ trong khi
binh sĩ và dân chúng con số chết lên
đến hàng nghìn người. Từ
đó, Huế đã có phong tục lập
trai đàn chẩn tế vào những ngày
này mỗi năm để cầu siêu cho những
linh hồn người chết oan được siêu
thoát.
Từ thuở nhỏ tôi đã chứng kiến
tại Huế năm nào vào tuần lễ sắp
đến ngày 23 tháng 5 Âm lịch, khắp
nơi tại Huế, nhất là ở khu chợ
Đông Ba, đều có che rạp, lập
hương án, những cuộc tế lễ kéo
dài suốt tháng năm.
Huế không thể ngờ vào những
ngày hưu chiến Tết Mậu Thân, Cộng Sản
lại có thể tấn công vào thành phố
và mục tiêu tấn công và tiêu diệt
cuối cùng là những người dân tay
không, bị trói xâu chuỗi, bị bắn,
đập đầu hằng loạt hay bị chôn sống
như lối hành quyết man rợ thời Trung Cổ.
Ba giáo sư người Đức bị chôn ngay
gần chùa Tường Vân, trên đường
đi Nam Giao, cũng như những nạn nhân bị
xử tử chôn sau trường Gia Hội là chỗ
gần nhất, và Khe Đá Mài thuộc quận
Nam Hòa là chỗ xa nhất, và phải một
năm sau khi có tin tức từ hồi chánh
viên, Tiểu khu Thừa thiên mới có thể
mở cuộc hành quân để mang các
hài cốt nạn nhân về.
Cách đây hơn hai mươi năm
Hoàng Phủ Ngọc Tường trong một dịp trả
lời với phóng viên truyền hình Anh quốc
đã cho đây là những “thành phần
ác ôn” do “quần chúng nổi dậy”
trừng phạt. Vào thời gian ấy, lúc miền
Nam
mới sụp đổ, cán bộ Cộng Sản tha
hồ nói tốt và tâng bốc chế độ.
Dần dần điều ấy xa với sự thật
và quá dã man, luận điệu Cộng Sản
lại nói “hầu hết nạn nhân đều
bị giết bởi bom đạn được bắn
một cách kinh hoàng chưa từng thấy của
Mỹ” và đã được quân Cộng
Sản chôn chung cùng với quân du kích của
chúng. Đó cũng là lối nói của
ông Bùi Tín vào năm 1993 khi ông cho rằng
“bom Mỹ giết hại người của cả
hai bên” và sau đó thi hài
“tù binh” thì vùi nhanh. Bây giờ với
đài BBC vào năm 2007, Bùi Tín lại
đổi giọng cho rằng cái này là
“do vướng chân, mệt, rồi bị
pháo bắn ngoài biển vào dữ dội
nên phần lớn do tự động các chỉ
huy trung đội tới trung đoàn đồng
lõa với nhau thủ tiêu không cho cấp
trên biết”. Như vậy, tù binh của Cộng
Sản là số anh em quân đội VNCH về
phép cũng tạm cho là được đi, thế
còn các vị giáo Y Khoa từ Cộng
Hòa Liên Bang Đức, quý vị linh mục kể
cả thiếu niên giúp lễ, các giáo
sư trung học, phụ nữ, y tá, cô giáo,
thanh niên Phật Tử ?
Luận điệu xảo quyệt của những
cây viết quốc doanh Cộng Sản lại còn
cho rằng đây là xác chung của quân
cán chính, thường dân, du kích Cộng
Sản bị bom đạn Mỹ giết, được
chôn vội vàng, sau này được VNCH
đào lên để diễn tấn kịch
“mồ chôn tập thể”. Từ bao nhiêu
năm nay, sau vụ Mậu Thân, Hà Nội
đã im lặng và đổ tội cho cấp
dưới, cho rằng đây không phải là
chủ trương của Bộ Tư Lệnh chiến dịch,
mà rập khuôn sau này là lời của
Bùi Tín đã nói ở đoạn
trên.
Chúng ta tưởng qua thời gian bốn
mươi năm, Cộng Sản ít ra cũng thấy
rõ đâu là sự thật, và ít ra
có thể xoa dịu được nỗi căm phẫn
đồng bào Huế về những gì mà bộ
đội Cộng Sản đã ra tay giết
chóc, nhưng bản chất người Cộng Sản
vẫn vậy, là lừa đảo, là trở
tráo. Năm nay, sau bốn mươi năm vụ thảm
sát Mậu Thân, Cộng Sản Việt Nam lại
tổ chức mít-tinh “chào mừng”,
làm “hội thảo khoa học”, “tọa
đàm khoa học” trên những đau khổ,
oan khuất của bao nhiêu linh hồn chưa siêu
thoát. Chúng ca tụng bộ đội Cộng Sản
đã hoàn thành “nhiệm vụ xuất
sắc”, phải chăng bằng đòn thù của
những tên đồ tể, mang phù hiệu cờ
đỏ sao vàng, đã giết người
không gớm taỵ
Bốn mươi năm qua, không chỉ
riêng người dân Huế mà cả thế
giới loài người vẫn chưa quên
được những nỗi kinh hoàng của Cộng
Sản để lại cho thành phố Huế. Hiện nay còn nhiều gia
đình có người mất tích không
thấy trở về, không tìm được dấu
vết trong các hầm chôn tập thể,
chúng ta tin rằng vẫn còn nhiều hầm
chôn xác nạn nhân nữa mà qua thời
gian chưa ai phát hiện ra được. Những
cán bộ địa phương nếu biết, hoặc
là họ đã không còn, hoặc sống
mà không có can đảm nói ra, vì
có thể bị trừng trị vì đã
làm xấu mặt thêm chế độ.
Huế vẫn chưa có được một
lời nói tử tế cho ra lời nói của một
con người, từ chế độ ngày nay
đã thống trị toàn đất nước,
mà chúng ta chỉ còn nghe toàn những lời
nói ngụy biện, dấu quanh dấu quất. Huế
bây giờ không có được một buổi
cầu siêu, một mâm cơm cúng giỗ
đàng hoàng vì các gia đình nạn
nhân của Cộng Sản ngày trước, vẫn
đang bị nhà cầm quyền theo
dõi. Những dòng nước mắt
không được trào ra mà phải nuốt
nghẹn, chảy vào tấm lòng u uất. Tết chỉ đem lại những dư vị
đắng cay, thảm sầu cho Huế xót xa của
tôi.
Bây giờ là đêm ba mươi Tết
sau bốn mươi năm đã trôi qua, tôi
như còn nghe đạn chát chúa của một
ngày rạng mồng hai Tết của những đợt
pháo kích và cái khung cảnh lạnh lẽo
vắng lặng của những ngày đầu Mậu
Thân, khi không hề có một cuộc tiến
quân giải tỏa, một tiếng động cơ
của máy bay có thể đem lại nguồn hy
vọng cho người dân Huế. Từ bên
phía tả ngạn sông Hương, trong khuôn
viên của khu trường Kiểu Mẫu, nơi
dành cho người tạm cư chạy trốn Cộng
Sản, tôi có thể trông thấy một nhịp
cầu Trường Tiền đổ gục xuống
giòng sông và cái cảnh bốn góc
thành và phía khu cầu Gia Hội khói lửa
ngụt trời. Mùi tử khí trong những
ngày đi theo những vụ khai quật
những nấm mồ vẫn như còn lẩn quất
đâu đây.
Những Huế Festival nhầy nhụa
phấn son không che lấp được nỗi thảm
sầu, nghèo đói, oan khiên. Định mệnh của Huế hay thời
đại đã sinh ra loài ma quỷ độc
ác, sinh ra chế độ độc ác, để
bắt dân tộc chúng ta còn phải đắm
chìm trong khổ hận, với những địa ngục
có thật trên mặt đất này, mà
Tết Mậu Thân ở Huế là một vết
dơ không bao giờ có thể rửa sạch.
Xin thắp một nén hương
cho Huế oan khuất.
HUY PHƯƠNG
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)