Mẹ Teresa, Thiên Thần
Ghé Thăm Trái Đất
(Trần Trung Ðạo)
Tôi gặp một phụ nữ bị
bịnh đang nằm chờ chết bên đường. Một nửa thân thể
của bà bị chuột rỉa và phần
thân thể còn lại thì bị kiến bu
đen nghịt. Tôi đem bà
vào bịnh viện nhưng họ không nhận
vì chẳng còn cách nào chữa trị
được. Tôi nhất định không
chịu ra về nếu họ không săn sóc cho
người đàn bà bất hạnh kia. Cuối cùng thì họ
chịu tạm thời lo lắng cho bịnh nhân của
tôi.
Để người đàn
bà ở đó, tôi đi đến trụ sở
thị xã để kiếm một nơi có thể
đem bà đó về. May thay có người chỉ cho
tôi một căn phòng trống trong ngôi
chùa Ấn Độ Giáo bỏ hoang.
Căn phòng đó sau nầy trở nên Căn
Nhà Cho Những Người Đang Chết. Tôi cầm
tay và ngồi lại với người phụ nữ
kia cho đến khi bà ta trút hơi thở cuối
cùng”.
Đó là một câu chuyện trong
hàng ngàn câu chuyện mà Mẹ Teresa kể
lại và đó cũng là một ngày
trong suốt 50 năm mà Mẹ đã hiến
dâng cho nhân loại khổ đau của thế
gian nầy. Cô bé Agnes Gonxha Bojaxhiu cất
tiếng khóc chào đời ngày 26 tháng
8 năm 1910 tại Macedonia
thuộc xứ Albany.
Cả gia đình theo đạo Thiên Chúa mặc
dù đa số dân Albany theo Hồi Giáo
và xứ sở nầy đang chịu sự bảo hộ
của Đế Quốc Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ.
Cha của Gonxha là một thương gia, có vẻ
thích chuyện chính trị và thường vắng
nhà vì công việc làm ăn xa. Năm Gonxha vừa lên 9 tuổi thì cha mất.
Mẹ của Gonxha phải tần tảo để
nuôi ba người con, tất cả đều trong tuổi
còn thơ ấu. Cả gia đình
đều ngoan đạo, ba mẹ con cùng cầu nguyện
mỗi đêm và đi nhà thờ mỗi
ngày. Trái tim của Gonxha,
dù còn thơ ấu, đã sớm nhịp
chung theo từng nỗi khổ đau của lớp người
cùng khổ. Nhà của ba mẹ con ở vốn cũng
đã nghèo nhưng nếu có ai cần
gì gõ cửa thì Gonxha cho hết những
gì mình có. Gonxha thường theo
mẹ đi giúp đỡ một người
đàn bà góa bị bịnh ghiền rượu
trong làng, tắm rửa và lo cho con cái
bà ta ăn uống. Khi bà góa phụ chết
để lại sáu đứa con thơ, mẹ con
Gonxha lại tiếp tục lo lắng cho chúng như
trong một gia đình.
Đến tuổi 12, cô gái
Agnes Gonxha Bojaxhiu đã có ý nguyện hiến
dâng cuộc đời để phục vụ ước
muốn của Chúa. Gonxha cầu nguyện rất nhiều, mãi
đến khi cô Gonxha lên 18 tuổi thì lời
cầu nguyện được thành sự thật.
Một buổi chiều năm 1928, sau khi đến
nhà thờ Đức Mẹ cầu nguyện, Gonxha gạt
nước mắt từ giã mẹ và hai chị
lên đường đi về phương
đông xa xôi, nơi khổ đau đang chờ
đợi bàn tay và trái tim của cô. Gonxha tạm thời dừng lại ở Dublin để
làm thủ tục tại cơ sở chính của
dòng tu Loreto Sisters. Tại
đây Gonxha học tiếng Anh và làm quen với
đời sống tôn giáo. Cô nhận y
phục của một nữ tu và chính thức chọn
tên cho mình là Teresa để tưởng nhớ
đến Thánh Teresa của Lisieux. Tháng
12 năm 1928, Sơ Teresa cùng một nhóm nữ tu
lên đường đi Ấn Độ, một xứ
sở mà Sơ Teresa hằng mơ ước. Đầu năm 1929, đoàn nữ tu đến
Columbo, rồi Madras và cuối
cùng là Calcutta.
Đoàn nữ tu tiếp tục chuyến
đi về phía Darjeeling,
dưới chân rặng Hy Mã Lạp Sơn, ở
đó các sơ trẻ sẽ được bắt
đầu huấn luyện hai năm trước khi thực
hiện Lời Hứa thứ nhất. Hoàn cảnh sống của dân
chúng Ấn Độ đã làm trái tim của Sơ trẻ Teresa thắt lại.
Bao nhiêu người đói khát,
bệnh tật đang thoi thóp chờ chết trên
cùng khắp mọi nơi trên vùng đất
Bengaly nghèo nàn và bất hạnh. Sơ
Teresa đi Calcutta để theo học
ngành sư phạm và không lâu sau
đó đã trở nên một cô
giáo trong trường cấp hai. Lòng
bác ái của Sơ Terera đã chinh phục
tâm hồn đang khao khát tình thương của
học trò một cách dễ dàng. Sơ Teresa
không chỉ dạy học sinh học chữ mà
còn dạy thương yêu và dâng hiến
tình yêu. Ngày 24 tháng 5 năm 1937, Sơ Teresa thực
hiện Lời Hứa cuối cùng tại Darjeeling. Ngoài nhiệm vụ dạy học, Sơ
Teresa dành thời gian để giúp đỡ những
người nghèo khổ. Sơ
Teresa đi thăm viếng bịnh viện, thăm viếng
những khu dân nghèo, những khu thường
được gọi một cách khinh bỉ là
khu ổ chuột.
Cuộc sống bi thảm của dân chúng
đã làm sống dậy mãnh liệt trong
lòng Sơ Teresa ước muốn “sống giữa
sự khổ đau của nhân loại” mà
Sơ từng ôm ấp từ những ngày
còn ở quê hương Macedonia. Với
tất cả dự tính trong đầu, Sơ Teresa rời
trường học để về lại Darjeeling vào ngày 10
tháng 9. Như Sơ đã nhắc
lại sau nầy “đây là chuyến đi
quan trọng nhất trong cuộc đời tôi”.
Ngày 10 tháng 9 sau nầy được
dòng tu của Mẹ Teresa gọi là “Ngày
Ước Vọng”. Sơ Teresa cố gắng thỉnh
nguyện Đức Ông Perier, Tổng Giám Mục
Calcutta để cho phép Sơ được rời
khỏi dòng tu Loreto Sisters để trở thành một
nữ tu độc lập. Tuy nhiên lời thỉnh cầu
của Sơ đã bị từ chối.
Một năm sau, Sơ Teresa lại lần
nữa đệ đạt lời thỉnh cầu của
mình. Lần
nầy, Đức Tổng Giám Mục đồng
ý nhưng chỉ thị Sơ Teresa phải đệ
trình đơn thỉnh nguyện lên Tòa
Thánh.
Mãi đến tháng 8 năm 1948, Sơ Teresa
mới nhận được sự chấp thuận của
Tòa Thánh cho phép Sơ được rời
khỏi dòng tu Loretto với một điều kiện
rằng Sơ phải giữ lời hứa phục vụ
người nghèo, tinh khiết và tuân phục.
Ngay sau đó, Sơ Teresa, 38 tuổi, từ giã chiếc
áo nữ tu Loretto và thay vào đó chiếc
áo vải thô, trị giá chỉ 1 đồng
tiền Ấn Độ, với viền xanh nhạt. Sơ Teresa trở nên một công dân Ấn
Độ và cuộc hành hương vào giữa
nỗi khổ đau của nhân loại thực sự
bắt đầu.
Sau khi học một khóa huấn luyện kỹ
càng về làm thế nào để sống
và săn sóc người nghèo và bịnh
tật, Sơ Teresa trở lại Calcutta, đi vào
các khu ổ chuột và giúp đỡ
dân chúng cùng khổ ở đó. Hằng
ngày Sơ Teresa tắm cho các em bé,
lau chùi các vết thương của bệnh
nhân. Phương tiện duy nhất của Sơ là đôi bàn tay, một cục
xà phòng nhỏ và vài chiếc khăn. Bất cứ khi nào có thể, Sơ
Teresa cũng không quên dạy họ học chữ.
Sơ một mình âm thầm làm
việc như thế trước sự ngạc nhiên
của mọi người trong làng. Họ tự
hỏi “Người đàn bà Châu Âu
trong bộ đồ vải trắng đó là ai ?” Đối với trẻ em
nghèo, họ bắt đầu gọi Sơ
là Mẹ Teresa. Đối với Mẹ
Teresa, Chúa là chỗ dựa tinh thần duy nhất
mà thôi.
Một ngày nọ có một
cô học trò cũ, con nhà giàu tìm
đến và xin ở lại với Mẹ. Mặc
dù đây là phút giây cảm động
nhưng Mẹ Teresa một mực từ chối. Mẹ kể cho cô
gái nghe về đời sống và công việc
làm hằng ngày của Mẹ, trong đó bao
gồm việc tắm rửa cho bịnh nhân, lau
chùi các vết thương, vết lở đầy
máu mủ. Cô gái ra về.
Ngày 19 tháng 3 năm 1949, cô
gái đó trở lại, không một
chút phấn son và không một món trang sức
nào trên người. Ước muốn của cô
đã được Mẹ Teresa chấp nhận.
Mẹ Teresa dùng tên cũ của mình để
đặt cho tên cho cô gái: Agnes. Và cứ
thế, tháng 5 có thêm ba người gia nhập
và sang năm sau thì có thêm 7 người.
Hội của những nữ tu Bác Ái với 12 nữ
tu đầu tiên được thành lập
và được Đức Giáo Hoàng chấp
thuận vào ngày 7 tháng 10 năm 1950.
Nguyên tắc căn bản của dòng tu
là hiến dâng chính mình để phục
vụ người nghèo trong tình yêu của
Chúa. Mẹ cũng đã mua lại căn
nhà cũ của một người Pakistan để
làm trụ sở đầu tiên. Căn nhà
sau đó đã được gọi là
Căn Nhà Của Mẹ. Từ điểm khởi
hành đó, hàng trăm người từ khắp
nơi trên thế giới đổ về hàng
năm để cùng với Mẹ Teresa dâng hiến
đời mình để xoa dịu nỗi khổ
đau của nhân loại.
Vào khoảng giữa thập
niên 1950, Mẹ Teresa tập trung nỗ lực vào
việc giúp đỡ bịnh nhân cùi. Chính phủ Ấn cung cấp cho Mẹ
khoảng đất rộng 34 mẫu để thành
lập Trại Cùi, trại nầy được Mẹ
đặt tên là Shanti Nagar (Làng Thanh
Bình).
Để tỏ lòng biết ơn và
tôn kính, chính phủ Ấn đã trao tặng
Mẹ Teresa giải Padmashree và 1965 Đức Giáo
Hoàng Paul VI đã đặt Dòng Tu Bác
Ái trực tiếp dưới sự kiểm soát
của tòa thánh. Đức Giáo Hoàng cũng
đề nghị Mẹ Teresa mở rộng dòng tu
sang các quốc gia khác ngoài Ấn Độ.
Năm 1971, Đức Giáo Hoàng Paul VI tặng Mẹ
Teresa giải Hòa Bình Giáo Hoàng John XXIII
cao quý. Năm sau, chính phủ Ấn Độ
trao tặng Mẹ Teresa giải thưởng quan trọng:
Jawaharlal Nehru. Năm 1979, Mẹ Teresa được
trao tặng giải Nobel Hòa Bình, giải thưởng
quốc tế được kính trọng nhất.
Dù nhận bao nhiêu huân
chương và giải thưởng, Mẹ Teresa cho
đến cuối đời vẫn một chiếc
áo vải thô trắng viền xanh đơn giản
mà Mẹ đã mua với giá 1 đồng
và tấm lòng thương người bao la
như nước sông Hằng cuồn cuộn.
Mẹ Teresa có lần dạy một bài học
về tình yêu đầy ý nghĩa:
“Người nghèo không cần chúng ta thương
hại, họ cần tình yêu và thông cảm.
Họ cho chúng ta nhiều hơn là
chúng ta cho họ. Trong thời gian
khó khăn của Ấn Độ, chúng tôi
yêu cầu một số người tình nguyện
từ khắp nơi đến giúp. Nhiều
ngàn người đã đến và khi họ
ra về, nhận xét chung của họ
là họ đã đem về nhiều hơn
là đem cho. Có một lần ở
Calcutta,
chúng tôi nhặt được 5 người
đang chết, trong đó có một người
phụ nữ bịnh quá nặng. Tôi
muốn ngồi với bà trong giờ phút cuối
cùng. Tôi đặt tay
tôi lên tay của bà. Bịnh nhân tỉnh
ra, nhìn tôi, không than đói, không than
khát chỉ miệng cười và nói
“cám ơn” trước khi nhắm mắt lại
từ giã cuộc đời”.
Ngày thứ Sáu 5 tháng 9 năm 1997, Mẹ
Teresa được Chúa gọi về sau hơn 50
năm phục vụ những người cùng
khó. Không phải chỉ dân tộc Albany hay quốc gia
Ấn Độ, mà cả nhân loại mất
đi một người Mẹ hiền. Ngay cả một
tờ báo Hồi Giáo ở tận xứ Kasmir cũng
đã viết những dòng ca ngợi Mẹ: “Mẹ Teresa chưa hề
được sinh ra đời và Mẹ cũng chẳng
bao giờ chết, Mẹ chỉ đến viếng
thăm hành tinh của chúng ta mà
thôi”.
Trần Trung Đạo
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)