TẤM
VẠT GIƯỜNG
(Tiểu
Tử)
Hồi đó, tôi làm mướn cho
ông Cả Bảy. Mấy ngày đầu, ngày
nào cũng chèo xuồng qua bên kia sông
để giữ ruộng cho ổng. Hồi ổng
kêu tôi làm việc cho ổng, ổng nói :
« Hổng có
gì, nhưng có mặt
mầy ở bển tụi nó không giám
phá lúa ! » . Ổng
nói ‘ phá’
để tránh nói ‘ ăn cắp’ nghe .. nặng lỗ tai !
Mà thiệt ! Công việc hổng có
gì gọi là nặng nhọc. Tôi treo võng
giữa hai cây gáo lớn cạnh bờ sông, rồi
nằm tòn ten trên đó ca tới ca lui mấy
câu vọng cổ, lâu lâu trèo lên
cây gáo ngồi nhìn ruộng lúa minh
mông kéo dài tới rừng tràm nằm
phía trong xa, xa cỡ đôi ba dặm hú.
Đó là chiều sâu. Còn chiều ngang
là nằm dài theo con sông Cái, có con rạch
No làm ranh phía trên, chỗ tôi treo cái
võng, và con rạch Bù Xu làm ranh phía
dưới. Từ rạch No muốn nhìn thấy
rõ rạch Bù Xu phải xè bàn tay
đưa lên ngang mày che bớt ánh sáng !
Nói như vậy, để thấy ruộng ông Cả
Bảy lớn biết ngần nào ..
Lần đầu tiên đi với ông Cả
Bảy qua ruộng để ‘ nhận việc ’ ,
thấy minh mông thiên địa như vậy,
tôi hết hồn, nói :
- Trời đất ! Mút chỉ
như vậy, mình con coi sao thấu !
Ông Cả Bảy cười khì khì :
- Tao chỉ cần mầy qua bển
cho có mặt hằng ngày chớ đâu
có biểu mầy đi đánh lộn với tụi
lưu manh đâu ! Cái lũ đó hễ thấy
có người canh ruộng là tụi nó
rút đi chỗ khác hè !
Ngừng một chút để suy nghĩ rồi ổng
nói :
- Tàm tạm vài bữa rồi
tao cho đám thằng Hai Lưa ở trại hòm
qua cất cho mầy cái chòi nhỏ có
tháp canh cao phía trên, để có chỗ
cho mầy đụt mưa đụt nắng.
Có lẽ thấy tôi còn .. ngơ ngơ
nên ổng nói tiếp
- Trên tháp canh sẽ có
cái ống tre lớn làm cái mõ. Hễ mầy
thấy có bóng người vô ruộng
thì mầy cứ gõ mõ liên hồi
là nó chạy. Hiểu chưa ?
Vậy là ít lâu sau, tôi có
cái chòi tranh vách lá, có chỗ để
treo võng, có chỗ để nấu cơm,
phía trước có cây cầu ván chờm
ra sông để tắm gội ..
..
Qua mùa lúa đó, ông Cả Bảy
kêu tôi, nói :
- Tao thấy mầy tuy côi
cút một thân một mình mà làm việc
siêng năng nên tao thương. Tao cho mầy một
miếng đất bên ruộng để mầy cất
nhà rộng rộng, còn lo cưới vợ nữa
chớ !
Vậy rồi mấy hôm sau, ổng dẫn
nhóm chú Hai Lưa trại hòm qua ruộng của
ổng, đo đạc cặm nọc để cho
tôi miếng đất nằm cạnh vàm rạch
No, còn chỉ chỗ cho chú Hai Lưa cất cho
tôi cái nhà nền đất nóc tôn
vách ván nữa ! Tôi cảm động nghẹn
lời, ấp úng nói mấy tiếng cảm
ơn mà cũng không tròn chữ tròn
câu .. Ông Cả cười cười :
- Mầy lo đốn cây
làm rào dậu, trồng trỉa cho thành khoảnh
đi, rồi tao kiếm cho mầy một con vợ !
Nói xong, ổng cười ha hả, khoái
chí !
…Ông Cả Bảy có hai người con
trai đi học bên tây rồi ở luôn ở
bển. Từ ngày
bà Cả nằm xuống, ổng vẫn sống
cu ky một mình trong cái nhà sàn tổ chảng
nằm cạnh trại hòm và trại cưa của
ổng. Ổng thôi làm cả trong ban hội tề
từ lâu nhưng trong làng vẫn gọi ổng
là Cả. Nghe nói ổng ‘ quen lớn ’ dữ
lắm, thấy mấy ông Quận ông Tỉnh
thường ghé nhà ổng chơi hay cùng
đi bắn le-le … Hồi tôi tới tuổi
đi quân dịch, ổng nói : «Mầy
yên tâm lo canh ruộng, còn vụ nầy, để
tao lo». Vậy rồi mươi hôm sau, ổng trao
cho tôi tờ hoãn dịch !
… Cất nhà xong, chú Hai Lưa vỗ vai
tôi, nói :
- Tao có một cái giường
đôi bằng gỗ không xài, để tao chở
qua cho mầy. Có điều là nó không
có tấm vạt giường, tại mấy thằng
con tao nó lấy cưa ra làm sạp cho ghe của
tụi nó. Mầy chịu khó đạp xe vô
Xóm Mới nói thằng Ba Kiên đương
cho cái vạt bằng tre, rẻ hơn cái vạt
gỗ mà nằm lại êm hơn gấp bội.
Ngừng một chút rồi ổng vò đầu
tôi, nói :
- Chừng cưới vợ, nhớ
cho tao nhậu với nghen !
Tôi nói ‘ Cám ơn chú’ ,
lí nhí nghe chừng không rõ lắm !
… Cái gường đó ráp vô rồi
thấy rộng rinh. Mình tôi ngủ thì cần
gì đến tấm vạt ? Vậy là tôi thả
lên hai tấm ván đủ cho tôi nằm, sung
sướng vì nghe thẳng lưng hơn nằm
võng !
Tôi ngủ không có tấm vạt giường
như vậy cho đến hết mùa lúa năm
đó thì tôi gặp ‘ Nàng’…
Cũng do Trời xui Đất khiến !
*
* *
Nàng tên là Huệ, mồ côi cha, con của
bà Năm Căng ở xóm Lò Gạch.
Nàng làm công cho lò gạch ông Tám
Tiếu. Nhờ đi chở gạch để ông Cả
cho sửa lại cái đầu bờ kè trước
nhà nên tôi gặp nàng. Gặp là
tôi hạp nhãn liền ! Trời ! Con gái
nhà quê gì mà nước da trắng
bóc, còn thân hình thì cân đối
thon thả kèm theo tướng đi lượn
là cứ bắt người ta phải nhìn theo !
… Vậy rồi nàng và tôi quen nhau. Vậy
rồi, ngày một ngày hai, tôi đạp xe
đến lò gạch. Không có gì : chỉ
cần gặp nàng để nói đôi ba
câu không đầu không đuôi, rồi
chèo xuồng về nhà bên kia sông,
trèo lên vọng gác ngồi ngẩn ngơ suốt
buổi !
… Vậy rồi, tôi nghĩ đến tấm
vạt giường ! Vậy rồi, tôi đạp xe
vô Xóm Mới đặt chú Ba Kiên
đương cho tấm vạt giường bằng tre.
Tuần lễ sau, tôi cuốn tròn tấm vạt
chở về nhà trải lên cái giường
gỗ, nhìn nó mà nghe lòng phơi phới.
Bởi vì đó là lần đầu
tiên tôi sắm một món đồ tuy
không có giá trị gì nhiều nhưng lại
mang đầy ý nghĩa …
… Để tránh tai mắt, tôi và
nàng thường hẹn gặp nhau ở đường
lên chùa vì đường đó vắng
người và có mấy bụi tre lớn giao
tàn che nắng. Hai đứa đứng nói chuyện
‘ trên trời dưới đất’ cả
canh, nàng hay cầm lấy cành tre non đầy lá
vươn ra cạnh chỗ nàng đứng, lắc
qua lắc lại như để đánh nhịp khi
nàng nói, mắt nàng nhìn bụi tre,
nhìn con dốc lên chùa chớ ít khi
nhìn tôi. Vậy mà sao tôi vẫn nghe
lòng phơi phới như được nàng
nhìn thẳng vào mắt !
… Bây giờ thì rõ ràng tôi
đã thương nàng, càng ngày
càng thương đậm ! Mà giữ riết
trong lòng thì ấm ức quá đi ! Chắc
phải nói ra cho nàng biết, rồi ra sao
thì ra ! Vậy rồi một hôm đứng cạnh
bụi tre đã thành quen thuộc, tôi
làm gan nói :
- Huệ à ! Anh nói thiệt,
Huệ đừng giận nghen ! Anh thương Huệ
quá rồi Huệ à !
Nàng bỗng quay sang nhìn tôi, tay vẫn
còn vin cành tre non, hỏi bằng một giọng
nhẹ như tiềng gió trong lùm tre trước
mặt :
- Vậy sao ?
Chỉ có hai tiếng nghe ngơ ngớ kỳ kỳ
như vậy mà tôi lại thấy như là
một sự chấp nhận ! Tôi bước lại
gần nàng, nàng vẫn nhìn vào mắt
tôi, cặp môi mấp máy như muốn
nói gì mà hai vành tai ửng đỏ.
Đúng lúc đó, tôi hửi được
mùi con gái của nàng làm tôi
choáng váng ngầy ngật. Trời ơi ! Tôi
muốn ôm đại nàng để siết chặt
lại trong tôi, bởi vì chỉ có làm
như vậy tôi mới nói được
tôi thương nàng biết ngần nào …
Nhưng tôi lại sợ làm ẩu, rủi
nàng không hiểu rồi giận, rồi vùng
vằng bỏ đi tuốt thì chắc tôi …
chết quá ! Tôi ráng kềm tôi lại, nuốt
nước miếng mấy lần mới nói
được :
- Huệ à …
Nàng ‘ dạ’ , tiếng ‘dạ’
nghe như chờ đợi. Nàng không còn
nhìn tôi mà quay về với cành tre non. Lần
nầy, nàng bứt từng chiếc lá tre rồi
bỏ rơi xuống đất, giống như nàng
đếm lá !
- Huệ à ! Anh muốn xin
cưới Huệ …
Nói tới đó tôi bỗng nghe … hụt
hơi ! Nàng im lặng bứt từng chiếc lá
… Một lúc, tôi hỏi :
- Mà Huệ có ưng
không ?
- Biết đâu nà !
Tôi ráng sức nói một hơi :
- Anh làm công cho ông Cả
Bảy. Anh có nhà có đất ở bên
kia sông. Anh được hoãn dịch không phải
đi lính. Anh sẽ nhờ ông Cả đánh
tiếng qua má của Huệ để xin cưới.
Mà Huệ phải cho anh biết coi Huệ có
ưng hay không, cái đã !
- Ờ … Thì vậy !
Rồi, có lẽ thấy câu trả lời
không mấy rõ nên nàng nói thêm :
- Tính sao cũng được
!
Tôi mừng quá, nắm đại bàn tay
nàng vứa lắc vừa cám ơn rối
rít ! Nàng bỗng quay qua nhìn tôi, mỉm
cười. Trời ! Cái cười của nàng
sao mà đẹp hết nói ! Tôi như bị
hốt hồn, cầm chắt bàn tay của nàng
mà tưởng chừng như đang cầm cây
sào cắm xuống lòng rạch để giữ
cho xuồng đừng theo con nước mà bỏ bờ
…
Đêm đó, trải chiếc chiếu
trên tấm vạt giường, tôi nằm lên
mà nghe mát rượi. Tôi nghĩ : rồi
đây, hai đứa sẽ nằm chung một vạt
giường. Chỉ bao nhiêu đó thôi cũng
đủ làm tôi sung sướng đi vào giấc
ngủ. Cuộc đời sao dễ thương quá hổng
biết ?
* *
*
Chuyện của nàng và tôi chưa ai biết
hết thì xảy ra vụ tháng tư 1975.
Lúc đó, nghe tin dân miền trung chạy rần
rần vô nam, ông Cả Bảy kêu tôi ,
nói :
- Chuyến nầy, mầy đi
giùm tao xuống Cần Thơ. Tao có con em mấy
chục năm nay theo chồng ở dưới. Địa
chỉ nó đây.
Ổng đưa tôi miếng giấy có ghi
tên họ, số nhà, tên đường :
- Tao nhờ mầy ôm một số
tiền xuống đưa cho tụi nó, biểu tụi
nó lo chạy về đây ở với tao sớm
sớm cho có anh có em. Có gì cũng
còn có nhau còn hơn là đứa một
nơi người một ngả, loạn lạc nầy
không biết đâu mà rờ. Tao có biểu
tụi thằng Hai trại hòm qua ở nhà mầy,
vừa giữ giùm nhà vừa coi ruộng
luôn. Đừng lo !
… Vậy là tôi lặn lội xuống Cần
Thơ tìm người em gái của ông Cả.
Bà nầy có sạp vải ở chợ Cần
Thơ, ông chồng là thiếu tá hải
quân. Khi tôi tìm ra được bả
thì có tin thiên hạ ở Sài Gòn
đang chạy di tản, làm dân chúng Cần
Thơ cũng rối ren hối hả xuống ghe xuống
xuồng tranh nhau đi. Ông thiếu tá hải
quân hốt hết gia đình đem lên
tàu chiến, kéo tôi theo luôn ! Đứng
trên tàu, tôi nhìn đồng ruộng chạy
lùi về phía sau mà chết điếng ở
trong lòng, không biết làm sao báo tin cho
ông Cả Bảy và nhứt là cho Huệ
…
… Vậy rồi sau thời gian nằm trên
đảo của quân đội đồng minh,
tôi định cư ở Mỹ, tiểu bang Cali .
Tôi làm công cho một tiệm ăn Việt Nam
ở khu Sài Gòn Nhỏ, rửa chén quét dọn lau nhà
… Lương lậu không bao nhiêu nhưng
được bà chủ cho ở trong một
phòng nhỏ nằm cạnh nhà bếp, ở
để làm gác-dan cho bả luôn !
Thời gian sau, khi đã ổn định đời
sống, tôi có gởi thơ về nhưng
không thấy hồi âm. Tôi biết làng
tôi nhỏ béo lại nằm tuốt trên
vùng Ngọn - gọi là ‘ Ngọn’ bởi vì nằm trên
ngọn sông Vàm Cỏ - giáp ranh với đất
Cao Miên. Hồi thời trước, trong làng
không có nhà bưu điện nên mỗi
tuần một lần ông Sáu làm biện trong
làng phải đạp xe xuống quận cách
đó mười mấy cây số để lấy
thơ ở nhà bưu điện đem về để
trong nhà làng. Dân chúng cứ tự động
đến coi trong đống thơ, cái nào mang
tên mình thì lấy, có khi lấy giùm
hàng xóm hay họ hàng bạn bè nữa !
Tôi nghĩ chắc bây giờ cũng vậy
thôi, thơ tôi gởi không đến tay Huệ
thì làm gì có hồi âm được
?
Dầu vậy, tôi vẫn tin tưởng rằng
nàng không bao giờ quên tôi, cũng như
tôi lúc nào cũng nghĩ tới nàng.
Tôi hay nghe mấy người có đọc
sách nói ‘Lời
thề trăm năm’ . Nàng và tôi
đâu có thề thốt gì đâu,
nhưng câu nói ‘ Tính sao cũng được’
và cái mỉm cười tiếp theo sau
đó của nàng ở đường lên
chùa hồi tôi ngỏ ý xin cưới …
tôi đã khắc ghi vào lòng. Như vậy,
chẳng phải là một ‘ Lời thề
trăm năm’ hay sao ?
Nhứt định tôi sẽ trở về Việt
Nam để cưới Huệ. Để hai đứa
cùng nằm chung một vạt giường, cái vạt
giường đương bằng thanh tre già chuốt
giẹp giẹp, nằm vừa êm vừa mát.
Để thấy cái mà mấy người biết
đọc sách gọi là ‘ Hạnh phúc lứa
đôi ’ đối với tôi, nó chỉ
vỏn vẹn là sự sung sướng được
chia đôi với người mình thương một
tấm vạt giường … Mà muốn được
vậy, tôi phải có tiền. Vậy là tôi để
dành tiền, cắc ca cắc củm !
* *
*
Nhờ hỏi thăm mấy người có về
Việt Nam nên tôi đã ước lượng
được số tiền cần thiết để
làm đám cưới và để hai vợ
chồng tôi có một số vốn làm
ăn. Vậy mà phải năm năm sau tôi mới
có tàm tạm đủ ! Chừng đó,
tôi mới dám ‘ lên kế hoạch’ :
nhờ ông Cả Bảy làm chủ hôn bên
đàng trai, rước dâu về nhà của ổng,
đãi đằng hai họ ở đó, xong rồi
tôi chèo xuồng đưa cô dâu về
nhà bên kia sông để tôi khoe với
nàng tấm vạt giường mà tôi sắm
cho hai đứa, từ hơn sáu năm nó vẫn
nằm chờ …
Ngồi trên máy bay về Việt Nam, trong
đầu tôi sắp xếp. Trước tiên
là về nhà tôi để nghỉ ngơi cho
tỉnh mỉnh. Sáng hôm sau sẽ đi thăm
ông Cả Bảy, còn xế chiều thì qua
nhà nàng vì giờ đó nàng mới
từ lò gạch về nhà, tôi sẽ bất
thần bước vô nói lớn : « Huệ
ơi ! Huệ ! Anh về rồi nè ! ». Tưởng
tượng đến đó, tôi bỗng ứa
nước mắt ! Đầu óc tôi tự
nhiên sao mù mờ. Làm như bao nhiêu
năm nay tôi chỉ chờ có như vậy !
Tôi thấy tội nghiệp tôi, tội nghiệp
nàng : nếu không có cái ngày nghiệt
ngã 30 tháng tư 1975 thì làm gì hai
đứa phải cắn răng chịu đựng khắt
khe cỡ nầy ?
… Làng tôi bây giờ lạ hoắc.
Không phải có thêm đường ngang nẻo
dọc mà thấy đầy cờ xí biểu ngữ,
loa trên loa dưới ồn ào không giống
cái gì hết !
Tôi xuống xóm chợ nhờ
một chị chèo xuồng mướn đưa
tôi sang sông.
Khi xuồng vừa cặp vô cây cầu
ván thì có con chó chạy ra sủa
rân, rồi hai ông bà già từ trong
nhà bước ra dòm. Té ra là chú
thím Hai Lưa hồi xưa thủ trại hòm của
ông Cả Bảy ! Chú Hai nhìn ra tôi ngay. Ổng
la lên :
- Trời đất ! Mầy
còn sống hả ? Ở đâu mà về vậy
?
- Dạ ở Mỹ.
- Cha … xa ớn há !
Rồi chú lật đật vừa la chó vừa
bước xuống cầu phụ tôi đem hành
lý lên. Trước nhà thấy có phơi
chiếc chiếu với hai ba cái gối. Trong nhà
vẫn như xưa, cái giường gỗ vẫn
nguyên chỗ cũ với tấm vạt giường
tôi đem về từ trong Xóm Mới. Chỉ
có thêm là hai cái võng nằm song song gần
đó, còn thì bàn ghế tủ
..v.v… không có gì thay đổi. Tôi
xúc động đến nghẹn lời. Chú Hai
nói :
- Mầy uống miếng trà rồi
nằm võng nghỉ lưng. Trong làng tưởng
mầy chết rồi chớ , đâu dè …
Để tao kể mầy nghe …
Vậy rồi chú nằm trên võng cạnh
tôi, vừa hút thuốc vừa kể :
- Hôm mầy đi Cần
Thơ, cha con tao theo lời ông Cả biểu, thay
phiên nhau qua đây giữ nhà giữ ruộng.
Kế đó, tụi nó - tụi cách mạng
ớ ! - tràn vô làng, bắt hết hội
đồng xã, bắt luôn ông Cả Bảy
trói bằng kẽm gai thành một dọc, chở
đi mất. Rồi tụi nó chiếm hết,
nhà cửa đất đai ruộng vườn,
đuổi tụi tao ra để lấy trại hòm.
Nhờ có cái nhà của mầy mà tụi
nầy dọn qua ở tạm. Tao và hai thằng con
tao cất thêm cho cái chòi giữ ruộng rộng
ra để để đồ đạc của tụi
tao và để hai thằng con tao có chỗ
hành nghề thợ mộc của tụi nó. Hai
thằng nầy coi vậy mà gan ! Tụi nó vượt
biên rồi định cư ở Úc. Bây giờ,
tụi nó có xưởng mộc ở bển, coi
bộ làm ăn khá ! Thấy lâu lâu gởi
tiền về nhờ thằng bạn tụi nó ở
thành phố chạy Honda lên đưa ! …
À ! Mầy biết hông ? Tụi cóc cắn
cách mạng có kêu tao về trại hòm
làm cho tụi nó, tao đấm thèm ! Mầy
nghĩ coi : trại hòm mà cũng bày đặt
trương biểu ngữ đề ‘ Hạ quyết
tâm hoàn thành tốt kế hoạch của
Nhà Nước ’. Mẹ ! … Hòm chôn
người chết mà cũng vô kế hoạch nữa
thì khùng hết nước nói ! Còn chuyện
nầy chắc mầy chưa biết : con Huệ, con
bà Năm Căng …
Hai tiếng "Con Huệ" làm tôi giật
mình. Tôi nhỏm dậy, lắng tai nghe. Chú
nói tiếp :
- Mấy tháng sau giải
phóng, không biết nó nghe lời ai mà
ôm gói xuống thành phố nói kiếm việc
làm rồi lặn mất luôn cho đến năm
ngoái đây, nó trở về mà đi bằng
xe hơi nhà có tài xế, trên băng sau
có người đàn ông có vẻ
ông chủ. Mầy biết, trong làng chỉ
có thằng Cói gia nhân của ông Cả Bảy
là được ổng sắm cho chiếc Honda để
đưa ổng đi đây đi đó, chớ
đâu có ai có xe hơi. Vì vậy, khi con
Huệ đi xe hơi thẳng vô xóm Lò Gạch
là thiên hạ để ý. Bà Năm
Căng kể lại nói bả nhìn nó
không ra, tưởng là một bà nhà
giàu nào đó đi lầm nhà ! Chừng
nó xưng tên, mẹ con nó và bầy em
nó ôm nhau khóc làm hàng xóm chạy
qua mừng cũng rớt nước mắt. Nó
đem cho má nó hai bao đồ rồi nhét
trong túi áo má nó một cọc tiền.
Sau đó, nó chỉ nói được
có mấy tiếng ‘ Con lạy má ! Con lạy
má !’ rồi vừa khóc vừa chạy vội
ra xe lên ngồi cạnh ông người
á-đông ở băng sau, tài xế rồ
máy chạy ào đi
gấp. Từ đó tới giờ không
có tin tức gì hết !. Còn đồ
nó cho má nó toàn là tơ lụa mắc
tiền nằm kín trong từng bao ni-lông có in
nhiều chữ tàu. Thầy Ba trên chùa đọc
rồi nói đó là sản phẩm cao cấp
của Thượng Hải …
Tôi ngả người nằm xuống võng mà
nghe lùng bùng hai lỗ tai, chết điếng ở
trong lòng. Chú Hai Lưa hỏi :
- Mầy
còn nhớ con Huệ hông ?
Tôi ‘ dạ ‘, tiếng dạ bị
nước mắt trào lên chận ngang. Tôi nuốt
xuống mà nghe miệng mồm đắng chát.
Không kềm được nữa, tôi đưa
hai tay lên bụm mặt. Chắc chú Hai Lưa thấy,
hiểu, nên nghe chú tằng hắng một tiếng
rồi làm thinh …
* *
*
Trên máy bay trở về Mỹ, tôi
nhìn qua cửa sổ thấy nhà cửa ruộng
đồng cây cối mờ lần mờ lần rồi
mất hút … mà tôi nghe buồn rười
rượi. Ở tuốt dưới đó, trong một
làng quê nằm xa mút trên vùng đất
Ngọn, tôi đã bỏ lại một tấm vạt
giường, tấm vạt giường tưởng
để nằm chung với người con gái
nhà quê mà tôi thương, đâu ngờ
chuyện hai đứa chưa kịp thành duyên
thành nợ thì nàng đã như chiếc
xuồng bỏ bờ mà trôi theo nước,
đành đoạn trôi theo nước …
Mối tình dành riêng cho nàng mà
tôi giữ miết ở trong lòng từ bao
nhiêu năm, giờ nghĩ lại sao thấy quá
khù khờ ! Dầu vậy, tôi vẫn muốn gặp
nàng, gặp một lần thôi, để chỉ
hỏi có một câu : « Tại sao ? ... Tại sao ?
… Tại sao ? … »
Nghĩ đến đó, tự nhiên tôi
trào nước mắt …
Tiểu
Tử
(DAI
DOI HAI QUAN sưu tầm và chuyển)