Mẹ trong
bài thơ Nước Trôi Mồ Mẹ
của
Hoàng Phong Linh Võ Đại Tôn
(TRẦN
TRUNG ĐẠO)
Mùng Một Tết
là ngày đánh dấu một năm mới bắt
đầu nhưng cũng là ngày nhìn lại
một chặng đường. Và như đã
hứa với nhà thơ Hoàng Phong Linh tức
nhà tranh đấu cho tự do Việt Nam Võ Đại
Tôn và cũng là người tôi được
phép gọi bằng anh, qua ngã trái tim và
dòng máu đỏ Việt Nam, tôi sẽ
cùng anh về thăm lại làng Kim Bồng,
quê nội của anh và cũng là nơi
người mẹ trong bài thơ Đổi Cả
Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười của tôi
đã ra đời.
Anh em tôi sẽ
dắt tay nhau trên con đường đất Hải
Châu, Đà Nẵng, thành phố thân
yêu, nơi chúng tôi đã lớn lên
trong mùa bão lửa ngút ngàn của
quê hương. Tôi sẽ về để
cùng tắm với anh bằng nước Thu Bồn,
giòng sông thi ca đã chảy vào tâm hồn
anh em chúng tôi những giòng thơ quê
hương mật ngọt. Và sáng mùng Một
Tết, tôi sẽ viết với anh về tuổi
thơ đầy bi tráng mà chúng tôi
đã trải qua trong những giai đoạn
khác nhau của cuộc đời mình. Bởi
vì, như Bùi Giáng viết, dù đi bao
xa điểm hẹn cuối đời người vẫn
là Cố Quận:
Rồi tôi
lớn, đi vào đời chân bước
Cỏ Mùa
Xuân bị giẫm nát không hay
Chợt
có lúc hai chân dừng một lượt
Người
đi đâu ? Xưa chính ở chỗ này.
(Bùi
Giáng, Mưa Nguồn)
"Chỗ
này" của Bùi Giáng là cố quận,
là nơi trở về của ý thức và
"chỗ này" của anh Võ Đại
Tôn là "Tổ ấm", của tuổi
thơ bất hạnh, của chứng tích chiến
tranh, của đau thương tàn phá như anh
viết trong lời ngỏ tác phẩm "Tuổi
Thơ và Chiến Tranh": "Con chim trước khi chết
còn biết quay đầu về núi, mong tìm
lại khu rừng xưa nơi có tổ ấm cội
nguồn."
Bài thơ
đầu tiên tôi đọc trọn vẹn của
nhà thơ Hoàng Phong Linh là bài thơ viết
về Mẹ và giòng sông Thu Bồn trong
mùa lũ lụt đăng trên Giai Phẩm
Xuân Quảng Đà số đầu tiên 17
năm trước do nhà thơ Thái Tú Hạp
ở California, Hoa Kỳ, chủ trương, bài
thơ Nước Trôi Mồ Mẹ.
Mười bảy
năm sau, một buổi chiều đầu năm như
hôm nay, tôi được lần nữa đọc
bài thơ này trong bản thảo hồi ký
Tuổi Thơ và Chiến Tranh của anh, niềm
xúc động vẫn còn nguyên như khi
đọc lần đầu.
Nhiều nhà
văn, nhà thơ có khiếu văn chương,
chỉ cần nhìn một bông hoa đẹp,
đi thuyền qua một giòng sông, họ có
thể để lại cho đời những bài
văn, bài thơ tuyệt tác. Anh em chúng
tôi không có được năng khiếu
đó. Phía sau những giòng chữ, những
câu thơ của Nước Trôi Mồ Mẹ
là những đời sống thật, những nỗi
đau có thật, là những mảnh xương
còn sót lại trên cồn cát, là những
mảnh thịt tan nát trong hố sâu và
là những giọt nước mắt tiếc
thương chảy suốt một đời người.
Hình ảnh
giòng sông, cơn lụt và ngôi mộ nhỏ
từ bài thơ anh viết, in sâu vào ý
thức của tôi từ 17 năm trước chợt
hiện ra chiều nay trên xứ người xa lạ.
Hình ảnh bi thương đó không phải
chỉ của riêng anh mà còn của tôi
và của tất cả những đồng bào
cùng số phận. Anh em chúng tôi, tuổi
tác cách nhau hơn 20 năm mà cùng chịu
chung một nỗi đau vì nỗi đau chỉ lớn
thêm nhưng lại không có tuổi.
Mười bảy
năm sau đọc lại bài thơ Nước
Trôi Mồ Mẹ, tôi không còn nước
mắt để khóc cho anh và cho tôi như
ngày thơ ấu ở Hội An, Đà Nẵng.
Mẹ của anh Võ Đại Tôn và mẹ của
tôi đều nằm bên bờ sông Thu. Bao
nhiêu mùa mưa lụt đi qua biết nắm
xương của hai bà mẹ Việt Nam đau khổ
đó có còn nguyên vẹn nữa hay
không và những ngày Tết đến,
có ai ghé ngang để thắp một nén
hương và nhổ đi giùm những bụi cỏ
dại ?
Chắc là
không. Chúng tôi những người con đi
xa, gánh trên vai đôi gánh nặng. Đất
nước, quê hương, tình thương
và nỗi nhớ. Nhiều khi tôi thèm làm
một con chim nhỏ, bay về đậu trên tấm
bia và đọc cho mẹ nghe những bài thơ
được đan kết từ mấy mươi
năm trầm luân thống khổ. Nhưng không,
đôi cánh chúng tôi quá nhỏ
và quãng trời thì quá xa, ước
mơ cũng chỉ là mơ ước. Chúng
tôi chọn lựa một cách sống mà
chúng tôi nghĩ là đúng nhất cho
đời mình và đất nước nhưng
chọn lựa nào mà chẳng có hy sinh.
Chúng tôi đã phải hy sinh những
riêng tư thân thiết nhất.
Ngày mẹ
tôi mất tôi còn quá nhỏ để
ý thức một cách trọn vẹn ý nghĩa
của đau thương. Giọt nước mắt
tôi nhỏ xuống trên ngôi mộ vàng mới
đắp bên bờ sông Thu hay tiếng tôi
thét lên trong đau đớn khi ngọn roi cuộc
đời lần đầu quất xuống ngang lưng
dù sao cũng chỉ là phản xạ tự
nhiên. Tôi còn quá nhỏ để hỏi
tại sao và để hiểu tại sao. Anh Võ
Đại Tôn thì khác. Anh lớn đủ
để biết cảm nhận nỗi đau thấm dần
vào ý thức. Anh bất hạnh hơn tôi
vì mẹ anh, người đàn bà vốn
đang trọng bịnh trong người, đã phải
chết trong hoàn cảnh vô cùng thảm
thương, đau đớn.
Một đoạn văn trong
hồi ký Tuổi Thơ và Chiến Tranh ghi lại
giờ phút cuối cùng của mẹ anh:
"Không có đem theo đèn đuốc
gì cả, chỉ có cầm theo hai cái cuốc.
Hắn bắt mẹ tôi ngồi riêng một chỗ.
Còn hai chú thì được lệnh lấy
cuốc tự đào một cái hố nhỏ.
Xong rồi, khi chú Mười tôi còn đang
đứng bên miệng hố, chưa biết làm
gì thêm, thì thình lình tên Thân
chụp một cái cuốc, phang ngang lưng chú một
nhát mạnh làm chú ngã chúi xuống
hố, nằm xấp, đau quằn quại. Trước
cảnh tượng bất ngờ như vậy, chú
Tám Dương tôi chưa kịp la lên
thì hắn đứng phía sau dùng chân
đạp chú té xuống hố. Chú tôi
vừa cố lóp ngóp bò lên vừa la xin
tha mạng. Hắn đứng trên miệng hố
cát, cầm cuốc phang xuống, trúng ngay
vào trán của chú tôi, làm chú
té bật ngửa ra, nằm đè trên
lưng chú Mười. Hai người chưa chết.
Rồi, hắn đến xốc mẹ tôi đứng
dậy trong khi mẹ tôi đang ôm mặt khóc
lớn. Hắn lạnh lùng dẫn mẹ tôi đến
cạnh miệng hố, xô xuống thật mạnh, mẹ
tôi rớt xuống, nằm xấp trên người
chú Tám. Hắn đứng trên hố, cầm
cuốc cúi xuống phang mấy nhát thật mạnh
vào lưng mẹ tôi, làm cả thân
hình mẹ tôi quằn cong lại. Cả ba người
chưa chết, nhưng không còn sức bò dậy
được nữa, nằm im trong máu, chung một
hố cát cạn. Tên Thân và đồng bọn
dùng cuốc xúc cát lấp hố lại rồi
bỏ đi. Chôn sống !"
Và
đây, bài thơ Nước Trôi Mồ Mẹ
của nhà thơ Hoàng Phong Linh Võ Đại
Tôn:
Con quỳ
bên ni dòng sông
Bên tê
mồ Mẹ !
Trời ơi,
nước ngập tràn đồng
Từng
khúc xương trôi đau lòng con trẻ.
Con mang trong
người thịt xương của Mẹ
Chừ
trông nước lụt dâng về
Con còn
bên ni, Mẹ mất bên tê,
Sóng bao la
vỗ, bốn bề Mẹ mô ?
Ngày
xưa Mẹ chết, con khóc mắt khô,
Chừ
xương Mẹ trôi, hồn con nước lụt.
Nước
dâng ngùn ngụt
Cuốn
mái tranh nghèo.
Sóng cuộn
mang theo
Ngày
vàng bên Mẹ.
Con nhớ
ngày xưa tiếng con thỏ thẻ
Đòi
đi theo Mẹ nhóm buổi chợ làng.
Mẹ dắt
tay con qua xóm, hoa vàng
Nở
tươi bờ dậụ
Con kêu :
– “Mẹ ơi, tưởng đàn bướm
đậu”
Mẹ cười,
bóp chặt tay con.
Con nhớ những
lối đường mòn
Trâu
bò qua lại.
Buổi chiều
đơn sơ, lũy tre nằm ôm nắng quái,
Con đùa
với bóng cau nghiêng.
Mẹ la :
– “Coi chừng tối ngủ không yên,
Giật
mình con khóc, bà Tiên bả buồn
…”.
Con nhớ những
mùa mưa tuôn
Gió
đông kéo về lạnh buốt.
Trong lòng Mẹ,
con nằm co rút,
Mẹ chuyền
hơi ấm tình thương
Con mê giấc
ngủ đêm trường, Mẹ vui.
Con nhớ
dòng sông êm xuôi
Trôi về
Phố Hội.
Giặt
áo bên con Mẹ ngồi mỗi tối,
Con nhìn
cá đớp trăng sao.
Mỗi lần
sao chuyển ngôi cao
Con đưa
ngực nhỏ, sao vào hồn thơ.
Nhìn con, mắt
Mẹ đầy mơ
Con đòi
Mẹ cõng, hờ ơ… Mẹ hò.
Chừ con về
: nước lũ, sóng to
Xoáy cửa,
phăng nhà,
Xốc
trôi mồ Mẹ !
Xương theo
dòng sông ngày xưa ra bể
Vì
chưng lòng Mẹ : đại dương !
Mẹ sống
lầm than cho con tình thương
Chừ Mẹ
chết đi, mồ trôi nước lụt.
Con quỳ
bên ni, linh hồn tê buốt
Mần răng
mà về bên tê chừ, Mẹ ôi !
Quê
hương nước ngập tận trời
Hồn con
khóc suốt một đời không nguôi
!…
(Nước
Trôi Mồ Mẹ, Hoàng Phong Linh)
Trần Trung Đạo
- trích trong lời tựa của
tác phẩm “Tuổi Thơ và Chiến
Tranh”
của Võ Đại Tôn -
(Sưu
Tầm Liên Mạng chuyển)